Vì sao lũ lụt lịch sử gây thiệt hại nặng nề cho Thái Nguyên?
(Dân trí) - GS.TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, cho rằng ngoài lượng mưa rất lớn thì việc phát triển đô thị vào vùng chậm lũ, phân lũ đã khiến Thái Nguyên bị ngập lụt nặng, gây thiệt hại rất lớn.
Phóng viên Dân trí trao đổi với GS.TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, xung quanh trận lũ lụt lịch sử ở tỉnh Thái Nguyên.

GS.TS Đào Xuân Học trao đổi với phóng viên Dân trí (Ảnh: Thế Kha).
Xây dựng đô thị vào vùng chậm lũ, phân lũ
Ông nhận định đâu là những nguyên nhân khiến lũ lụt lịch sử ở Thái Nguyên gây thiệt hại đến nay trên 4.000 tỷ đồng?
- Về khách quan cho thấy rất rõ mưa cực đoan rất lớn, lớn hơn lượng mưa từng xuất hiện ở Thái Nguyên, tạo áp lực lớn về tiêu thoát lũ.
Nguyên nhân thứ hai là đô thị hóa nhiều. Phía bờ tả sông Cầu trước đây không hề có đô thị ở đó. Và ở đó chỉ có đê bối chống lũ báo động cấp 2, nếu trên cấp 2 thì nước tràn vào sẽ gây ngập khu vực này. Đó chính là vùng chậm lũ của Thái Nguyên.
Nếu lũ cao hơn nữa thì có thể chảy xuống phía dưới cầu Gia Bảy, như một dạng chậm lũ và hơi mang tính phân lũ cho khu vực này. Nhưng Thái Nguyên đã làm đê, xây khu đô thị tại đây.
Về nguyên nhân chủ quan phải thấy rằng không có sự phối hợp tốt giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch tiêu thoát nước, thủy lợi nên đã không nhìn thấy tất cả vấn đề đang tồn tại ở Thái Nguyên.
Đối với sông ở vùng đồng bằng, lưu lượng nước hàng năm người ta gọi là lưu lượng tạo dòng, tạo một dòng. Nhưng ở vùng trung du như Thái Nguyên thì không đơn giản thế, bởi liên quan đến đồi núi, đất đá không dễ tạo dòng sông. Lũ ở vùng trung du hung dữ hơn vùng đồng bằng vì khu vực này có độ dốc lớn.
Ở Thái Nguyên làm đê nên đã thu hẹp dòng chảy khi mực nước lên cao, sông Cầu lại bé và quanh co uốn khúc rất nhiều. Ít có sông nào quanh co, uốn khúc như sông Cầu, nước sông chảy mãi ra tới Phả Lại mới nhập vào hệ thống sông Thái Bình, điều này dẫn đến việc thoát nước khó khăn hơn.
Khi mực nước trên sông Cầu dâng quá cao, không thoát kịp nên đã chảy ngược lại vào khu vực đô thị, dẫn tới ngập lụt rất nhanh trong đêm và gây ra hậu họa rất lớn với người dân ở đây.
Có ý kiến nói rằng khu vực đô thị Thái Nguyên được quy hoạch từ thời Pháp không bị ngập trong đợt lũ lụt lịch sử vừa rồi?
- Đúng vậy. Còn khu chậm lũ và phân lũ để cho nước lũ chảy tràn qua nhưng giờ đã xây khu đô thị hết vào khu vực đó rồi. Đó là lỗi trong quy hoạch.
Nhiều người dân ở đây dường như đã bất ngờ vì lũ quá lớn, diễn ra quá nhanh và có ý kiến cho rằng họ không được cảnh báo kịp thời?
- Đúng là dự báo, cảnh báo lượng mưa 100-200mm, nhưng sau đó mới thấy bình quân trên 400mm, nhiều nơi 500mm, có nơi 600mm. Dự báo ở mình đúng là nhiều khi chưa được tốt.
Ở Nhật Bản, họ dự báo lượng mưa 3 ngày hầu như không có sai sót hoặc rất ít sai sót. Ở ta công tác dự báo mưa lũ còn nhiều vấn đề.

Mưa lớn nhấn chìm nhiều khu vực ở tỉnh Thái Nguyên (Ảnh: Thành Đông).
Việc này có nằm ở công nghệ dự báo, cảnh báo thiên tai không, thưa ông?
- Tôi cho rằng bản chất trong mọi chuyện liên quan đến con người là chính. Từ khi tôi còn làm quản lý, năm 2012 trở về trước, đầu tư của quốc tế vào lĩnh vực này không ít. Khi đó đã có dự án rất lớn, nhưng vấn đề ở chỗ phải kết hợp từ trang thiết bị đến con người, chứ không phải cứ mua trang thiết bị đầy đủ, các trạm đo đầy đủ là dự báo chính xác được.
Phải thẳng thắn nhìn nhận, dự báo của mình chưa thật chính xác, có thể liên quan tới việc đầu tư, phương tiện máy móc. Còn tôi nghĩ yếu tố con người là quan trọng. Nếu con người giỏi, tốt, tôi nghĩ đầu tư vài trăm tỷ nâng cấp trang thiết bị dự báo, cảnh báo thiên tai bằng các nước thì Nhà nước có thể sẵn sàng đầu tư ngay. Nên về lâu dài vẫn phải nâng cao năng lực dự báo.

Lực lượng chức năng tỉnh Thái Nguyên cứu hộ người dân mắc kẹt trong lũ dữ (Ảnh: Hải Nam).
Ngoài ra, không thể không nói tới hồ chứa. Vùng này hồ chứa lớn rất ít.
Vùng này có khoảng 17-18 cái hồ, lớn nhất là hồ Núi Cốc nhưng vừa rồi lượng mưa vào đó ít, không có xả lũ lớn. Thông thường các nơi ngập liên quan đến xả lũ nhiều, còn các hồ nhỏ thì không quá lớn, hồ bé không ảnh hưởng lắm.
"Kinh phí sẽ không nhỏ đâu vì có cả lũ núi đổ về"
Ông thấy tính cấp thiết của việc làm đê ven sông Cầu qua Thái Nguyên nhằm tránh lặp lại lũ lịch sử ở đây như thế nào?
- Tôi thấy cái này cần cân nhắc. Đây là sông của trung du nên độ dốc tự chảy hung dữ. Bây giờ phải tính toán cho đầy đủ. Rõ ràng con đê ở Thái Nguyên vừa rồi cũng vững vàng, lũ trên lịch sử hơn 1m mà không bị vỡ. Nhưng nếu đắp đê cao, to lên sẽ phải đặt ra bài toán quy hoạch, bài toán về đô thị hóa ở đây.
Vùng đô thị ở đó, xung quanh là vùng trũng của Thái Nguyên, nếu nâng đê lên cao nữa sẽ khiến nâng mực nước sông Cầu lên quá cao, có thể tái diễn việc bị chảy ngược. Muốn không chảy ngược lại thì phải đóng cống để bơm, nhưng bơm thoát nước ở vùng trung du rất phức tạp. Phải làm sao tách được lũ vì xung quanh còn rất nhiều nước từ các vùng đồi núi chảy về. Đó là bài toán phải tính. Bơm nước mà gặp lũ từ núi đổ vào thì bao nhiêu cho hết được. Không đơn giản đâu.
Tất nhiên quy hoạch thủy lợi có thể làm được, không khó khăn gì cả. Như chúng tôi vẫn hay nói với sinh viên là tách lũ, lũ trên cao, nước trên cao thì để tiêu trên cao, thấp tiêu thấp, không để nước trên cao dồn về nơi thấp.
Phân cấp đê phụ thuộc vào 4 yếu tố: Diện tích vùng bảo vệ đê, dân cư vùng bảo vệ, kinh tế - xã hội khu vực và chiều cao con đê. Từ đó quyết định cấp đê. Ở đây có đê cấp 3, chống lũ 50 năm xuất hiện một lần (không phải 50 năm sau mới xuất hiện mà có thể ngay năm sau xuất hiện lũ lớn); trên mức đó là không chống được.
Vừa rồi lũ mấp mé thế mà đê không vỡ. Bây giờ nâng nó lên thì phải tính được mực nước có thể lên tới đâu, sau đó so với bên trong đê chỗ nào có thể tự chảy ra được, chỗ nào không tự chảy được... Rồi phải tính làm trạm bơm, làm hồ chứa vùng chậm lũ vài ngày rồi tiêu dần, tùy theo phát triển kinh tế.
Đó là bài toán quy hoạch. Có điều ở đây kinh phí sẽ không nhỏ, vì có cả lũ từ núi đổ về nữa.

GS.TS Đào Xuân Học cho rằng kinh phí để xây dựng các dự án phòng chống lũ lụt cho Thái Nguyên "sẽ không nhỏ" vì ở đây có cả lũ núi đổ về (Ảnh: Thế Kha).
Như tôi nói, phương châm tiêu nước là cao tiêu cao, thấp tiêu thấp, không để lũ trên cao dồn về nơi thấp. Nguyên tắc thế nhưng không phải lúc nào cũng làm được.
Kênh tách lũ lớn nhất hiện nay là kênh Vách Bắc ở Nghệ An, lũ núi đưa vào đó chảy thẳng ra biển, còn bên trong nội đồng tiêu nước riêng nhằm giảm kinh phí. Nếu một hệ thống sông, kênh đổ hết về vùng thấp tiêu nước lũ sẽ gây ngập kinh khủng.
Nhìn rộng hơn, theo ông cần phải rà soát, đánh giá lại tổng thể quy hoạch phòng chống thiên tai, thủy lợi khu vực các tỉnh phía Bắc sau trận lũ lịch sử vừa qua?
- Nếu bình tĩnh nhìn lại, chúng ta sẽ thấy đã để 20 năm lãng phí nguồn lực, chồng chéo nhau rất lớn trong quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý đê, hai bên sông, kè dọc đê, cống dưới đê, công trình trên đê.
Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý lòng sông, quản lý nước lòng sông, khai thác cát - nguyên nhân dẫn tới sạt lở đê, kè, sập cả cầu, hạ thấp lòng sông. Một con sông, một mặt cắt ngang mà hai bộ quản lý sao làm được, dẫn tới khi kè sạt nhiều thì "đổ tội" cho nhau. Đó là tôi ví dụ một cái thôi.
Vừa qua chúng ta đã đầy quyết tâm sáp nhập 2 bộ để tránh chồng chéo đấy. Bây giờ bộ máy trong các bộ cũng phải tiếp tục rà soát lại để tránh chồng chéo. Điều này rất quan trọng.

Số lượng ô tô ở Thái Nguyên ngập chìm trong biển nước rất lớn, đang được đưa về các địa phương lân cận sửa chữa (Ảnh: Thành Đông).
Để khắc phục hậu quả, mình có nhiều kinh nghiệm, bộ máy của mình tương đối rồi thì làm cái đó không khó. Tôi cho rằng phải rà soát lại các luật, giữ luật nào, luật nào cần ghép lại, sửa chữa bổ sung, phân giao nhiệm vụ giữa các bộ. Nếu ngành nước làm được như ngành điện thì sẽ khác hẳn. Thể chế chính sách về lâu dài rất quan trọng, phải rạch ròi nếu không rất phức tạp.
Nếu Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp tốt với Bộ Xây dựng chắc chắn sẽ khác. Bây giờ khắc phục chắc chắn tốn tiền vì liên quan đến đồi núi phức tạp hơn ở đồng bằng. Nhưng không thể không làm, bởi chuyện quá lớn rồi.
Xin cảm ơn ông.
Lũ trên các sông vượt lịch sử, 4 tỉnh chịu hậu quả nặng nề
TS. Lương Hữu Dũng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thủy văn và Hải văn (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu) cho rằng đợt mưa lũ lịch sử sau bão số 11 (Matmo) vừa qua là kết quả của hình thái thời tiết cực đoan hiếm thấy.
Sau đó đã có những trận mưa cực lớn với tâm mưa chủ yếu ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh - vốn có địa hình trung du, đồng bằng xen kẽ, hệ thống sông suối dày đặc nhưng khả năng thoát lũ còn hạn chế.
Lượng mưa ở Bắc Kạn (tỉnh Thái Nguyên) ngày 7/10 là 201mm, phá vỡ kỷ lục mưa tồn tại 61 năm ở đây. Cũng trong ngày 7/10, Thái Nguyên có lượng mưa lên tới 491mm, cao hơn nhiều mức 201mm vào năm 1978. Tại Bắc Giang (tỉnh Bắc Ninh) ghi nhận lượng mưa khoảng 365mm, gấp 3 lần kỷ lục 120mm vào năm 2016.
Mưa rất lớn trên diện rộng khiến lũ trên các sông lên rất nhanh và phá vỡ nhiều kỷ lục được xác lập trên sông Cầu tại Gia Bảy (Thái Nguyên), vượt lũ lịch sử 1,09m; sông Thương tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) vượt lịch sử 1,77m; sông Bằng tại Bằng Giang (Cao Bằng) vượt lịch sử 0,58m.
Thống kê của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, lũ lụt sau bão Matmo gây ra thiệt hại kinh tế ở 4 tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh trên 8.720 tỷ đồng.





















