DNews

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử

Đức Hoàng

(Dân trí) - Giáo sư sử học Pháp Pierre Journoud nhận định, tầm nhìn xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp Việt Nam nắm được thời cơ nhằm tổ chức thành công Cách mạng Tháng Tám và tuyên bố độc lập vào ngày 2/9/1945.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử

"Năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Việt Nam sau 30 năm đi tìm đường cứu nước. Đó là những năm tháng mà ông đã học hỏi, tích lũy được kinh nghiệm, xây dựng các mối quan hệ chính trị quan trọng. Chính những điều này đã giúp Việt Nam trong các cuộc cách mạng và đấu tranh sau này", Giáo sư sử học Pháp Pierre Journoud nhận định với Dân trí.

Theo nhà sử học này, thành công của Việt Nam trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó có việc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy thời cơ lịch sử, của thế trận lòng dân, cũng như sự quyết tâm, can đảm vượt trên những khó khăn và thiếu thốn. 

Chính tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được xem là một yếu tố quan trọng, cùng với các nỗ lực của các nhà lãnh đạo Pháp, góp phần giúp Việt Nam và Pháp hàn gắn sau khi cuộc chiến chấm dứt, để trở thành một hình mẫu của tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tươi sáng.

Nắm bắt thời cơ lịch sử

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 1

Giáo sư sử học Pháp Pierre Journoud nhận định Việt Nam đã nắm được thành công cơ hội lịch sử để thực hiện thành công cuộc Cách mạng, và tuyên bố độc lập 80 năm trước (Ảnh: Đức Hoàng).

Năm 1945, Pháp đã trải qua Thế chiến II, kiệt quệ vì các cuộc chiến, với hơn 500.000 người thiệt mạng, hàng triệu người bị thương, nhiều thành phố, tỉnh thành, công trình bị phá hủy, nền kinh tế suy giảm. Theo giáo sư Journoud, vào thời điểm đó, Pháp đã mất vị thế của một đại cường quốc.

Tới tháng 3/1945, phát xít Nhật thực hiện cuộc đảo chính ở Đông Dương, lật đổ bộ máy của thực dân Pháp, lên nắm quyền kiểm soát khu vực. Tuy nhiên, 5 tháng sau, phát xít Nhật thua trận và đầu hàng phe Đồng minh, khép lại Thế chiến II.

Thời điểm đó đã tạo ra "lỗ hổng" về mặt chính trị và thời cơ lịch sử để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam nắm bắt nhằm tổ chức các cuộc cách mạng giành lại chính quyền ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước. 

Vào năm 1944-1945, Việt Nam gặp hàng loạt khó khăn. Lực lượng còn non trẻ, thiếu thốn nghiêm trọng. Năm 1944, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thành lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay, chỉ với 34 chiến sĩ.

Giáo sư Journoud nhận định, điều này cho thấy sức mạnh tinh thần, lòng can đảm rất lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như nhân dân Việt Nam trong cuộc cách mạng nhằm giành lại độc lập, tự do do đất nước khi phải đối đầu với đội quân lớn mạnh hơn nhiều.

Sự quyết tâm và khát khao độc lập tự do sau gần một thế kỷ bị đô hộ là điều đã giúp Việt Minh khi đó xây dựng phong trào giác ngộ quần chúng, bồi dưỡng lực lượng cần thiết để chờ thời cơ chín muồi.

Bên cạnh đó, vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, nhân dân Việt Nam đối mặt với nạn đói kinh hoàng do chính sách cai trị của lực lượng phát xít và thực dân, khiến hàng triệu người thiệt mạng.

Với tầm nhìn xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy thời cơ đã tới khi cả thực dân Pháp và phát xít Nhật đều suy yếu. Lực lượng Việt Minh khi đó đã sử dụng thế trận lòng dân, sự khát khao tự do và độc lập của các tầng lớp nhân dân trong xã hội để kêu gọi thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 2

Bản Tuyên ngôn khẳng định nền độc lập của Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của đất nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ảnh: Nguyễn Hải).

Giáo sư Journoud nhận định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự tính toán và thể hiện cách nhìn nhận đầy khéo léo khi lồng ghép 2 bản Tuyên ngôn nổi tiếng này vào Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam.

"Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng những bằng chứng về nền độc lập của 2 cường quốc Pháp và Mỹ để khẳng định nền độc lập của Việt Nam", ông Journoud chia sẻ.

Theo giáo sư, Cách mạng Tháng Tám thành công và sự kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945 được xem đã có tác động tới các nước tại khu vực trong phong trào giành độc lập.

Sau thất bại ở Đông Dương và mất các thuộc địa, Pháp đã quyết định đưa quân trở lại Việt Nam với mục tiêu khôi phục vị thế đại cường quốc sau Thế chiến II bằng biện pháp quân sự.

Quyết định sai lầm này đã khiến 2 nước tiếp tục vướng vào một cuộc chiến kéo dài thêm nhiều năm gây tổn thất to lớn, và chỉ khép lại vào năm 1954, với chiến thắng của Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Giáo sư Journoud nhận định, chiến thắng Điện Biên Phủ đã có tác động to lớn tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, tới hàng loạt các nước thuộc địa, trong đó có thuộc địa của Pháp ở châu Phi, vùng cận Sahara. Đây là lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa ở châu Á chiến thắng một cường quốc thực dân phương Tây và nó đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các dân tộc đang bị đô hộ khác vào thời điểm đó.

Sau năm 1954, chỉ trong vòng vài năm, nhiều thuộc địa của Pháp ở châu Phi đã thành công trong phong trào giành độc lập.

Nỗ lực hàn gắn

Giáo sư Journoud đánh giá, lịch sử Việt Nam và Pháp là minh chứng rõ ràng cho sự hàn gắn khi từ cựu thù trở thành Đối tác chiến lược toàn diện. Hai nước đã hóa giải quá khứ để xích lại gần nhau, trở thành đối tác tin cậy.

Theo giáo sư Pháp, từ thế kỷ 19 tới 20, Việt Nam phải đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh, nhưng đây là một quốc gia đặc biệt. "Chính phủ và đất nước này đã vượt qua được nỗi đau từ chiến tranh - một thách thức rất lớn - để bắt tay hòa giải và thậm chí hợp tác với những nước từng ở phía bên kia chiến tuyến", ông nhận định.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 3

Giáo sư Journoud cho rằng cả Việt Nam và Pháp đều có nỗ lực trong nhiều năm qua nhằm làm dịu quá khứ đau thương và hàn gắn (Ảnh: Đức Hoàng).

Ông Journoud cho rằng, hàn gắn không chỉ là quá trình 2 quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao, mà là một khái niệm rộng hơn, vì liên quan nhiều đến tư tưởng, là sự công nhận về của 2 bên về quá khứ và lịch sử, để hiểu nhau hơn và cùng tiến về phía trước.

Với tầm nhìn xa, các nhà lãnh đạo Việt Nam từ nhiều thập niên trước đã ý thức được việc 2 nước sẽ cần phải hàn gắn. "Tôi thực sự ấn tượng với các lãnh đạo Việt Nam vào thời điểm đó vì họ đã nghĩ tới việc hàn gắn với Pháp. Tôi cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp là những người đã đặt nền móng để có thể mở đường cho việc nối lại quan hệ với Pháp", ông nhấn mạnh.

Vào tháng 7/1954, khi hội nghị Geneva diễn ra, trưởng đoàn đàm phán Việt Nam, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có cuộc gặp với Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France. Đây được xem là bước đầu tiên của nỗ lực giữa chính phủ 2 nước nhằm xích lại gần nhau và hiểu nhau hơn.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 4

Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France gặp Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng bên lề hội nghị Geneva. Đây được xem là một dấu mốc quan trọng trong việc giúp 2 nước xích lại gần nhau hơn (Ảnh: Thế giới và Việt Nam).

Đây là lần đầu tiên các lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lãnh đạo Pháp gặp nhau trong khuôn khổ các cuộc đàm phán tại Geneva.

Theo sử gia Pháp, cuộc gặp này động thái đầy tính biểu tượng, đầy mạnh mẽ, có tính nền tảng cho quan hệ giữa hai nước Việt - Pháp vì nó diễn ra giữa 2 lãnh đạo cấp cao của 2 nước vào thời điểm 2 bên mới bước ra khỏi cuộc chiến và vẫn còn tâm lý ngập ngừng trước đối phương.

Về phía Pháp, nhiều thế hệ nhà lãnh đạo cũng đã đóng góp vào quá trình hàn gắn quan hệ với Việt Nam như Tổng thống Charles de Gaulle, Tổng thống Francois Mitterrand, Tổng thống Jacques Chirac… cùng nhiều tướng lĩnh, nhà nghiên cứu.

Một ví dụ tiêu biểu chính là cựu Tổng thống Charles de Gaulle. Vào năm 1945, ông de Gaulle, khi đó là lãnh đạo Chính phủ lâm thời Pháp, chủ trương khôi phục ảnh hưởng của nước này tại các thuộc địa, trong đó có Đông Dương.

Tuy nhiên, khi trở lại nắm quyền vào năm 1958 với cương vị Tổng thống Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp, ông de Gaulle công khai phản đối sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam.

Vào năm 1966, trong bài phát biểu tại Phnom Penh, Campuchia, ông cho rằng đây là cuộc chiến mà Washington không thể thắng. Ông kêu gọi Mỹ rút quân và giải quyết xung đột bằng thương lượng, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, chính phủ và nhân dân Pháp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức Hội nghị Paris về Việt Nam, sau đó là Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973.

Vào cùng năm, Pháp và Việt Nam đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tháng 2/1993, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand trở thành lãnh đạo phương Tây đầu tiên thăm Việt Nam kể từ năm 1975.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 5

Tổng thống Pháp Francois Mitterrand trò chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc gặp vào tháng 2/1993 (Ảnh: Reuters).

Trên tinh thần hòa giải, cựu Tổng thống Mitterrand tới thăm chiến trường Điện Biên Phủ. Phát biểu tại Hà Nội sau chuyến thăm, ông Mitterrand thừa nhận, theo quan điểm của ông, cuộc chiến của Pháp ở Đông Dương "dường như là một sai lầm".

"Tôi cảm thấy hài lòng khi Pháp là quốc gia phương Tây đầu tiên đến đây để thể hiện mong muốn hòa giải", ông Mitterrand nhấn mạnh.

Sau chuyến thăm, quan hệ hợp tác của Việt Nam và Pháp trong nhiều lĩnh vực đã được mở rộng. Ông cũng đồng thời cam kết giúp Việt Nam khôi phục quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế và tăng viện trợ, đồng thời kêu gọi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam.

Ngoài sự đóng góp của giới chính trị trong công cuộc hàn gắn quan hệ Việt - Pháp, ngoại giao nhân dân cũng được xem là yếu tố hiệu quả giúp 2 nước hiểu nhau và xích lại gần nhau.

Theo ông Journoud, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chủ trương thúc đẩy chính sách ngoại giao nhân dân của Việt Nam, thông qua các hiệp hội và tổ chức. Đây là một hướng đi rất sáng suốt.

Năm 1955, Hội Hữu nghị Việt Nam - Pháp được thành lập theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thúc đẩy “hòa bình, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi” giữa nhân dân hai nước. Sau này, Hội được đổi tên thành Hội Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Pháp nhằm củng cố và phát triển quan hệ giữa 2 nước.

Vài năm sau đó, Hiệp hội hữu nghị Pháp - Việt ra đời vào năm 1961 với mục tiêu thiết lập và phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân Pháp và Việt Nam.

Đây là 2 trong số hàng loạt các tổ chức hữu nghị giữa nhân dân 2 nước, góp phần giúp người Pháp và người Việt xích lại gần nhau. Điều đó cho thấy sự hàn gắn giữa Pháp và Việt Nam không chỉ dừng lại ở cấp độ chính trị, mà còn là sự gắn kết giữa nhân dân 2 nước.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 6

Lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973 tại Pháp (Ảnh: TTXVN).

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, người dân Pháp đã xuống đường biểu tình ủng hộ một đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Họ hỗ trợ, đóng góp tiếng nói vào phong trào phản chiến trên toàn cầu, góp phần giúp dư luận thế giới gia tăng áp lực lên Mỹ, một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam giành thắng lợi vào năm 1975.

Theo giáo sư Journoud, hai nước đã có thể hiểu rõ về nhau, trao đổi một cách thẳng thắn về quá khứ. Đây là điều kiện không thể thiếu để có thể hàn gắn. Vì sự hàn gắn cần phải có sự chia sẻ với cùng một góc nhìn về quá khứ để hiểu được về lịch sử, thấu hiểu nhau hơn.

Biểu tượng của sự hàn gắn

Sự hàn gắn cũng nhiều lần được diễn ra ở một địa điểm đầy tính biểu tượng chính là Điện Biên Phủ.

Đó là những cựu binh Pháp đã quay lại chiến trường xưa. Họ là những người đã đi qua cuộc chiến và hiểu được sự mất mát to lớn mà chiến tranh gây ra. Điều đó đã thôi thúc họ mong muốn chiến tranh sẽ không xảy ra nữa, cũng là nhằm gieo hy vọng vào một tương lai tươi sáng và hòa bình cho 2 nước.

Nhiều quan chức cấp cao của Pháp đã tới Điện Biên Phủ, thăm lại chiến trường cũ và biến nơi đây trở thành biểu tượng của sự hàn gắn.

"Đối với tôi, biểu tượng cao nhất của sự hàn gắn là đại diện của cơ quan chính quyền Pháp đã quay lại Điện Biên Phủ để có thể thắp nén hương cho những người từng ở phía bên kia chiến tuyến", ông Journoud nói, nhắc tới sự kiện năm 2018, khi Thủ tướng Pháp Edouard Philippe khi đó từng đến thăm Điện Biên Phủ và thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 7

Năm 2018, Thủ tướng Pháp khi đó là ông Edouard Philippe đã tới thăm Điện Biên Phủ (Ảnh: AFP).

Ông Philippe là nhà lãnh đạo đầu tiên của Pháp thăm nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ. Tại đây, ông đã đặt vòng hoa, thắp hương và dành một phút mặc niệm, bày tỏ sự kính trọng đối với hương hồn những liệt sĩ Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh vì độc lập dân tộc. 

Vào năm 2024, ông Sébastien Lecornu là Bộ trưởng Bộ Quân đội Pháp đầu tiên đến tham dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Vào cùng năm, Tổng Bí thư Tô Lâm đã thăm Pháp. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu 2 nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. "Điều đó cho thấy Việt Nam và Pháp đánh giá nhau quan trọng như thế nào trong bối cảnh địa chính trị hiện tại", giáo sư Journoud nhấn mạnh.

Đó cũng là minh chứng cho nỗ lực không ngừng nghỉ giữa chính phủ, nhân dân 2 nước trong nhiều năm qua nhằm vượt qua quá khứ để hợp tác đôi bên cùng có lợi.

Vào tháng 5, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam, với việc 2 nước ký kết hàng loạt thỏa thuận, hợp đồng, mở rộng các lĩnh vực hợp tác trên mọi lĩnh vực mà 2 bên quan tâm.

Sử gia Pháp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa và nắm bắt thời cơ lịch sử - 8

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tại Trụ sở Trung ương Đảng vào ngày 26/5 (Ảnh: Báo Thế giới & Việt Nam).

Theo giáo sư Journoud, sự hàn gắn giữa 2 quốc gia là kết quả của việc 2 nước đã cùng nhìn về một hướng, nắm rõ bối cảnh địa chính trị biến động hiện tại và sự cần thiết của việc hợp tác vì một tương lai cùng phát triển. Pháp đã công nhận vị thế càng tăng của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, cũng như tiềm năng to lớn của quốc gia Đông Nam Á. 

"Khi 2 nước gắn kết dựa trên yếu tố văn hóa, lịch sử, địa chính trị, tôi tin rằng quan hệ Pháp và Việt Nam sẽ có thể vượt qua mọi chông gai và tiếp tục phát triển trong tương lai", ông Journoud nhấn mạnh.

"Quốc gia của các bạn thật tuyệt vời. Tôi đã gợi ý nhiều người Pháp tới thăm Việt Nam và cũng có nhiều sinh viên đã và đang học tiếng Việt, tìm hiểu về lịch sử Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều cơ hội để phát triển", ông Journoud nói.

Giáo sư Journoud cũng cho biết ông rất hạnh phúc khi đến Việt Nam trong những tháng ngày lịch sử, khi cả nước tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9.

"Tôi cảm thấy không khí đang nóng dần lên mỗi ngày và tôi rất vui khi có thể ở Hà Nội để chia sẻ với các bạn trong dịp đặc biệt này", ông cho hay.

Giáo sư sử học Pierre Journoud đang giảng dạy tại trường Đại học Paul-Valéry Montpellier 3 (Pháp). Ông là chuyên gia nghiên cứu về lịch sử, từng là cố vấn cho các đoàn quan chức cấp cao Pháp thăm Việt Nam. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách và công trình nghiên cứu về Điện Biên Phủ, nỗ lực hòa giải cũng như quan hệ song phương giữa Pháp và Việt Nam.