(Dân trí) - Dân trí có cuộc trò chuyện với PGS.TS Nguyễn Ái Việt, người đứng sau cuộc đàm phán bản quyền phần mềm giữa Chính phủ Việt Nam với Microsoft và viết "Kế hoạch Ba Đình" về phát triển khoa học công nghệ.
TS Nguyễn Ái Việt là một nhà vật lý lý thuyết từng làm giáo sư ở Hungary và Mỹ, từng là kỹ sư trưởng phần mềm chuyên về an toàn thông tin cho các tập đoàn hàng đầu thế giới như AT&T và Siemens. Năm 2003, theo lời kêu gọi của một lãnh đạo Chính phủ Việt Nam, ông từ bỏ mức lương cao trong công ty nước ngoài để quay về gắn bó với lĩnh vực khoa học công nghệ quê nhà.
Nhân dịp Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, báo Dân trí phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Ái Việt về những đề xuất của ông trong việc nâng cao toàn diện năng lực khoa học công nghệ của đất nước.
TS Nguyễn Ái Việt trò chuyện với báo Dân trí (Video: Phạm Tiến - Tiến Tuấn)

Hành trình nghiên cứu khoa học của ông trải dài từ Đông Âu đến Tây Âu và Hoa Kỳ. Câu chuyện đã diễn ra như thế nào?
- Để trả lời câu này, tôi cần quay lại bối cảnh lúc tôi rời Việt Nam. Những năm đầu thập niên 1980, cuộc sống ở Việt Nam rất khó khăn, đặc biệt với giới trí thức. Nhiều người bạn của tôi - những người rất giỏi - phải chịu cảnh khổ sở khi làm khoa học trong khối nhà nước. Một số rời bỏ viện nghiên cứu, trường đại học để ra ngoài kiếm sống, trong khi những người ở lại thì cuộc sống rất chật vật. Tôi từng phải chua xót chia tay vĩnh viễn người bạn vong niên thân thiết nhất, một nhà khoa học nghiêm túc, có trí lực, chỉ vì thảm kịch gia đình không đáng có, bắt nguồn từ chuyện cơm áo gạo tiền và bế tắc về đường đi.
Tôi quyết định ra nước ngoài trước hết là tự cứu mình, tìm con đường tốt hơn cho bản thân, rồi mới mong sau này giúp được mọi người. Ban đầu, tôi sang Hungary, về giảng dạy tại trường đại học nơi tôi học trước đây, và được phong giáo sư ở đó vào năm 1987. Trước khi đi, tôi đã phải chuẩn bị suốt 3 năm trời, ngày đêm miệt mài đèn sách, nghiên cứu để tạo cho mình một nền tảng kiến thức vững vàng. Nhờ đó, tôi giành được một giải thưởng khoa học, rồi mới có cơ hội ra nước ngoài. Tuy nhiên, khi đã ở Hungary ổn định, tôi vẫn luôn băn khoăn: Làm thế nào để giúp được tất cả anh em, bạn bè của mình ở quê nhà?
Ở Hungary lúc đó tình hình cũng rối ren, nhưng tôi đã có một vị trí ổn định. Dù vậy, tôi nhận ra Hungary chỉ giải quyết được vấn đề của riêng tôi - một cuộc sống yên bình, không cần phấn đấu quá nhiều - chứ không trả lời được câu hỏi lớn hơn cho cả một thế hệ. Thế là tôi quyết định đi tiếp, sang Mỹ.
Ở Mỹ, tôi gặp nhiều giáo sư và hỏi họ: "Làm sao để phát triển khoa học công nghệ?". Một vị giáo sư đáp lại: "Nước anh có tiền không? Không có thì làm sao mà làm khoa học được? Điều kiện tiên quyết là phải có tiền". Câu nói đó làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Việt Nam lúc ấy chỉ có làm nông nghiệp, không có cách nào "làm tiền" cả. Dần dần, tôi nhận ra rằng khoa học không thể chỉ thuần túy nghiên cứu lý thuyết. Nó phải gắn với kinh tế - xã hội, phải tạo ra công nghệ mới, rồi bán công nghệ đó để làm giàu. Mỹ có một thị trường rất năng động, một hệ sinh thái hỗ trợ việc chuyển đổi công nghệ thành tiền. Đó là động lực lớn cho các nhà khoa học.

Tôi nhớ có một ví dụ điển hình: ông Stephen Wolfram, một nhà vật lý lý thuyết như tôi, nhưng ông không dừng lại ở nghiên cứu mà đã sáng lập công ty Wolfram Research, tạo ra những phần mềm nổi tiếng và trở nên rất giàu. Khi giàu, ông ấy lại dùng tiền để tài trợ nghiên cứu. Từ đó, tôi hiểu rằng khoa học và công nghệ phải đi đôi với nhau, không chỉ để giải quyết câu hỏi của riêng mình, mà là giải quyết vấn đề của xã hội.
Vậy điều gì đã khiến ông quyết định trở về Việt Nam sau thời gian làm việc ở nước ngoài?
- Khi qua Mỹ, tôi may mắn nhận được một học bổng đặc biệt dành cho các nhà khoa học trẻ trên toàn thế giới. Đây là sáng kiến của một giáo sư ở Ý, gọi là "Phòng thí nghiệm Thế giới", với tổng cộng 1.000 suất học bổng. Tôi gắn bó với chương trình này hai năm. Đến năm thứ ba, tôi được mời làm giáo sư nghiên cứu. Vậy là tôi ở đó ba năm.
Sau thời gian đó, tôi đứng trước hai lựa chọn: một là nhận vị trí tại Viện nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương khi đó mới mở ở Hàn Quốc, hai là sang một trường đại học ở Ireland. Nhưng lúc ấy, tôi đã bắt đầu cảm thấy đủ với hành trình ở nước ngoài. Tôi nghĩ mình đã tìm được câu trả lời cho những câu hỏi lớn mà tôi từng đặt ra khi rời Việt Nam. Hơn nữa, từ khi tốt nghiệp đại học, tôi đã xác định rõ là sẽ không ở lại nước ngoài mà sẽ quay về, vì tôi thấy quê nhà còn rất nhiều việc cần làm và tôi muốn góp phần vào đó.
Tuy nhiên, tôi không khỏi tự hỏi: "Về Việt Nam thì làm gì để nuôi vợ con?". Lúc ấy, tôi nghĩ khá đơn giản là mình cứ tiếp tục nghiên cứu vật lý lý thuyết và giảng dạy, còn thời gian rảnh thì có thể làm thêm gì đó để kiếm sống - ví dụ như sửa máy tính, giống như ngày trước ở Hà Nội có một nghề khá phổ biến là "sửa tivi, đài cassette" vậy. Tôi hình dung chỉ cần làm thêm một hai tiếng buổi tối là đủ sống. Thế rồi tôi quyết định học thêm công nghệ thông tin để có một nghề tay trái. Trong vòng một năm, tôi lấy bằng thạc sĩ về lĩnh vực này. Không ngờ, sau khi tốt nghiệp, nhiều công ty lớn mời tôi làm việc. Từ đó, tôi rẽ sang hướng mới, gắn bó với công nghệ thông tin và coi đó như một nghề chính thứ hai của mình.
Năm 2000, tôi được tập đoàn Siemens mời làm kỹ sư trưởng về an toàn thông tin với mức lương lên tới 6 con số. Nhưng lý do chính khiến tôi đầu quân cho Siemens là vì kỳ nghỉ dành cho nhân viên ở đây kéo dài 5 tuần, tôi có nhiều thời gian hơn để về Việt Nam (những công ty khác của Mỹ thường chỉ cho nghỉ 2 tuần). Một lần tình cờ, tôi gặp Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và ông nói với tôi: "Cậu nên về hẳn để giúp đất nước". Đến năm 2003, tôi quyết định về nước.

Ngày nay không nhiều bạn trẻ biết câu chuyện ông từng đại diện Chính phủ Việt Nam đàm phán với Microsoft về bản quyền phần mềm dùng cho máy tính của bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương. Ông có thể "bật mí" về cuộc đàm phán này?
- Thực ra, đến giờ tôi vẫn không hiểu rõ vì sao Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học Công nghệ) lại chọn tôi làm Tổ trưởng Tổ đàm phán với Microsoft.
Chuyện có lẽ bắt đầu từ chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của Bill Gates vào năm 2006. Khi ấy, tôi là Phó Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ thông tin, nhờ khả năng tiếng Anh khá ổn - không dám nói là giỏi, nhưng có lẽ giọng giống người Mỹ một chút - tôi được giao nhiệm vụ trình bày kế hoạch phát triển công nghệ thông tin của Việt Nam trước Bill Gates, và vị tỷ phú công nghệ nghe có vẻ thích thú. Cuộc gặp đó có sự tham gia của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Trưởng Ban Chỉ đạo; Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Đỗ Trung Tá…
Trong chuyến thăm, Bill Gates cũng đã hội đàm với Thủ tướng Việt Nam và hai bên đề cập đến việc Việt Nam sẽ là đối tác chiến lược của Microsoft và sẽ thanh toán bản quyền phần mềm Office dùng cho cán bộ, công chức trên toàn quốc.
Vào năm 2006, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam vào loại cao nhất thế giới (trên 90%). Theo ước tính của Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và Công nghệ thông tin, với khoảng 2 triệu máy tính cá nhân thì để xóa bỏ vấn nạn này, chúng ta cần tới gần 1 tỷ USD. Trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, nỗ lực giải quyết vấn đề sở hữu trí tuệ, bản quyền cũng để góp phần nâng cao vị thế.
Tóm lại, Việt Nam muốn xóa tiếng "ăn trộm phần mềm" khi hội nhập, còn Microsoft muốn một ví dụ điển hình về chính phủ cam kết giải quyết vấn đề này để làm gương cho thế giới. Cả hai bên đều có lợi ích chung. Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm yêu cầu đàm phán trong 3-6 tháng, nhìn lại có thể nói chúng tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Quá trình đàm phán diễn ra như thế nào?
- Khi bước vào bàn đàm phán, Microsoft đưa ra con số nợ khổng lồ, tính toán dựa trên 10 năm sử dụng phần mềm Office trước đó. Họ bảo: "Các anh có bao nhiêu công chức, nhân lên số người dùng, thì nợ bấy nhiêu." Nhưng tôi đặt nguyên tắc đầu tiên: không hồi tố nợ cũ. Phải mất vài buổi họ mới đồng ý. Sau đó, chúng tôi đàm phán hợp đồng cho tương lai.
Ban đầu, họ đưa ra số tiền bản quyền rất lớn cho 5 năm sử dụng phần mềm ở tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Tôi đề nghị không chỉ cán bộ, công chức mà toàn bộ giáo viên cũng được dùng phần mềm có bản quyền. Rồi chúng tôi thương thảo, giảm dần mức giá từng chút một, như một cuộc đấu trí vậy.

Điều khiến tôi hơi tủi thân là các thành viên trong tổ đàm phán hầu như không tham gia trực tiếp, suốt quá trình chỉ mình tôi đối mặt với đoàn đàm phán của Microsoft. Tôi không rõ vì sao, có thể họ ngại, hoặc vấn đề này quá nhạy cảm.
Phía Microsoft thì rất chuyên nghiệp. Mỗi lần đàm phán, họ mang theo đội 4-5 người: luật sư, chuyên gia bán hàng, kỹ thuật, tài chính. Còn tôi, bên này gần như không có trợ thủ. May mắn là trước đó, tôi từng tham gia đàm phán dự án "Internet cộng đồng" sử dụng vốn ODA, nên ít nhiều hiểu bên ngoài cần gì ở Việt Nam. Các đại diện của Microsoft cũng khá cởi mở, giúp quá trình suôn sẻ hơn.
Cuối cùng, chúng tôi đi đến thống nhất các điểm mấu chốt của hợp đồng. Lễ ký kết thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược và hợp đồng mua bản quyền sử dụng phần mềm Office giữa Chính phủ Việt Nam và Tập đoàn Microsoft diễn ra vào ngày 21/05/2007 dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Microsoft Steve Ballmer.
Về sau có ý kiến chỉ trích rằng Tổ đàm phán làm thất thoát hàng trăm triệu đô la, tôi chỉ cười vì thực tế không có chuyện đó. Đúng là phía Microsoft đưa ra con số ban đầu rất lớn, nhưng mức giá cuối cùng chỉ bằng khoảng 1/5 của 100 triệu đô la. Microsoft còn hào phóng tặng lại 5 triệu đô la để phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam, nên thực tế chúng ta chỉ trả số tiền khá nhỏ (so với mức giá ban đầu).
Ở trên ông nhắc tới dự án "Internet cộng đồng". Đây cũng là dự án mà ông đã tham gia đàm phán?
- Dự án "Phát triển Internet ở Việt Nam" được thỏa thuận giữa Việt Nam và Nhật Bản với quy mô từ 200-300 triệu USD. Khi được bổ nhiệm làm Trưởng ban chuẩn bị dự án này, tôi đã nghiên cứu kỹ và thấy đây là một cơ hội đột phá chuyển đổi công nghệ, đồng thời đề xuất đổi tên dự án là "Internet cho cộng đồng nông thôn Việt Nam" hay ngắn gọn là "Internet cộng đồng" mà sau này mọi người đều thích dùng.
Việc thiết kế lại dự án so với khuôn khổ ban đầu rất khó khăn. Các tư vấn có quan điểm sử dụng công nghệ dial-up, một hình thức truy cập Internet sử dụng các tiện ích của mạng điện thoại chuyển mạch công cộng phổ biến lúc đó. Trong khi tôi đề xuất triển khai cáp quang (vì công nghệ dial-up sẽ lạc hậu) đến xã, tăng cường ứng dụng chính phủ điện tử, giải trí, chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao dân trí; thí điểm với quy mô dưới 40 triệu USD trước khi nhân rộng.
Sau nhiều tranh luận căng thẳng, các điều kiện tôi đưa ra đều được chấp nhận, tiếc là dự án không thể triển khai dù có vốn đối ứng khá tốt. Tuy vậy, về sau nội dung cốt lõi của dự án này được lồng ghép vào một số dự án khác của các tập đoàn viễn thông trong nước, và được Quỹ Bill Gates-Melinda tài trợ một phần.
Dù kết quả không như mong muốn, tôi rất tự hào về dự án "Internet cộng đồng", vì tin rằng nó có ý nghĩa không nhỏ đối với sự phát triển của Internet ở Việt Nam trong giai đoạn tiến lên băng thông rộng.

Đầu thập niên 2000, khi hồi hương, ông theo đuổi phần mềm soát lỗi chính tả và dịch thuật "made in Việt Nam", tham vọng sẽ đánh bại ứng dụng dịch thuật của Google (Google Translate). Vì sao ông mạo hiểm cạnh tranh với một "gã khổng lồ" công nghệ?
- Khi tôi mới vào làm việc tại Bộ Thông tin Truyền thông thì được lãnh đạo Bộ dẫn đến gặp anh Hoàng Tô - Công ty Tinh Vân - giới thiệu một phần mềm dịch thuật. Tôi rất hào hứng. Ở Mỹ, tôi đã trao đổi với nhiều chuyên gia về công nghệ dịch thuật, và tôi luôn quan niệm rằng để Việt Nam tiến lên, chúng ta phải tiếp cận tri thức thế giới. Dịch thuật là cầu nối quan trọng: dịch sách, tài liệu nước ngoài vào Việt Nam để nâng cao tri thức, đồng thời dịch tác phẩm Việt Nam ra thế giới để quảng bá văn hóa. Theo tôi, đây đáng lẽ phải là một chính sách tầm quốc gia ngay từ đầu.
Phần mềm của Tinh Vân dựa trên 3 triệu quy tắc dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Nhưng phương pháp này cần máy tính rất mạnh, không chạy được trên thiết bị thông thường. Tôi nghĩ ngay đến công nghệ dịch dựa trên thống kê - một hướng đi mới, không phụ thuộc vào quy tắc ngôn ngữ cố định. Nếu dùng dữ liệu huấn luyện trí tuệ nhân tạo, máy có thể tự học và dịch linh hoạt hơn. Thế là tôi mang công nghệ này về Việt Nam, có thể nói là người đầu tiên.
Khi triển khai, ông gặp những thách thức gì?

- Ban đầu, tôi khá ngây thơ, nghĩ rằng cứ làm ra sản phẩm tốt là đủ. Ở Việt Nam lúc đó, ngoài sản phẩm của Tinh Vân, còn có từ điển Lạc Việt khá nổi tiếng. Tôi tự so sánh: Lạc Việt tốt nhất, rồi đến Tinh Vân, Google Translate và phần mềm của tôi. Nhưng chỉ sau 6 tháng, phiên bản của tôi vượt qua Google vì chúng tôi hiểu tiếng Việt sâu hơn.
Phần mềm của Google và tôi đều hỗ trợ dịch hai chiều Anh-Việt, Việt-Anh, trong khi Tinh Vân và Lạc Việt chỉ làm một chiều và sau đó bỏ cuộc vì công nghệ cũ. Anh Hoàng Tô từng đùa: "Anh Việt vào làm thì bọn em phải thôi".
Dần dần, tôi nhận ra Google quá mạnh. Tôi đầu tư gần 1 triệu đô la - toàn bộ số tiền tiết kiệm - vào công ty, nhưng vẫn không thể cạnh tranh nổi với Google, vì họ có nguồn lực khổng lồ.
Ông rút ra bài học gì từ thất bại triệu đô kể trên?
- Tôi nhận ra không thể cạnh tranh lâu dài với các công ty đa quốc gia. Họ có tầm nhìn và nguồn lực. Nhưng nỗ lực của tôi không vô nghĩa. Tôi không xem đó là thất bại. Thứ nhất, nó giúp đào tạo thế hệ trẻ về công nghệ. Thứ hai, nó tạo động lực để các hãng công nghệ lớn chú ý đến tiếng Việt. Nếu không, với hàng trăm ngôn ngữ trên thế giới, họ chẳng vội quan tâm đến chúng ta.
Kết quả là giờ đây, người Việt hưởng lợi từ những công cụ dịch thuật tiên tiến. Dù không thắng trong cuộc đua dài hơi, tôi vẫn thấy hài lòng vì đã góp phần thúc đẩy quá trình ấy.

Ông và một số cộng sự từng viết "Kế hoạch Ba Đình" về phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Bản kế hoạch ra đời như thế nào?
- Chuyện bắt đầu từ năm 2014, khi anh Nguyễn Thành Nam (nguyên Tổng giám đốc FPT) chia sẻ với tôi một sáng kiến: làm sao hỗ trợ những người Việt học tập, làm việc ở nước ngoài trở về nước.
Anh em khi về nước thường phải vật lộn để thích nghi lại văn hóa làm việc, cần một mạng lưới kết nối. Thế là anh Nam đề xuất lập câu lạc bộ, lấy tên là Ái Việt, mượn tên của tôi. Khẩu hiệu của câu lạc bộ là "Cá hồi" - ý nói giống như cá hồi bơi ngược dòng về nguồn, về Việt Nam để tiếp tục phát triển. Chúng tôi đã tổ chức nhiều buổi gặp gỡ, giúp kết nối anh em về nước với các doanh nghiệp cần tài năng. Trong khuôn khổ sinh hoạt của Câu lạc bộ, chúng tôi nảy ra ý tưởng viết một chiến lược khoa học công nghệ cho Việt Nam, đặt tên là "Kế hoạch Ba Đình".
Vì sao ông quyết định viết một bản chiến lược tổng thể chứ không phải là đề án về vấn đề cụ thể nào đó?
- Khoa học Việt Nam, cho dù còn nhiều bất cập, vẫn là thành quả của nhiều thế hệ. Trong đó, thế hệ khoa học đầu tiên trưởng thành trong chiến tranh đã được đào tạo hoặc chịu ảnh hưởng từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Đó là nền móng đầu tiên, và nói cho cùng đã được nhân dân đầu tư bằng giá máu, không ai có quyền để mai một.

Ngày nay, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, trước hết là nguy cơ tụt hậu, mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình. Bên cạnh đó là những đe dọa như đồng bằng sông Cửu Long ngập mặn, bụi mịn và không khí ô nhiễm thủ đô Hà Nội, đất trượt sạt lở ở miền Trung…
Thế hệ chúng tôi phải trả lời cho thế hệ đi trước là đã làm được gì và phải trả lời cho thế hệ tương lai là sẽ phải làm gì.
Có lẽ vấn đề đầu tiên ảnh hưởng tới việc phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam là việc lập kế hoạch, chiến lược. Năm 2006, khi đang làm Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ thông tin, tôi được giao rà soát lại các kế hoạch, chiến lược, đề án, dự án quốc gia về công nghệ thông tin, tôi thấy có hàng chục kế hoạch mà cấp trên phê duyệt, đều không được triển khai. Dường như các đề án chưa phản ánh được ý chí chung và một nhận thức sâu sắc về nhu cầu bức thiết của xã hội.
Người Việt chúng ta thường né tránh tranh luận, dễ đồng ý với nhau những vấn đề chung chung như khoa học công nghệ là cần thiết, giáo dục là quốc sách, nhưng khi đi vào việc thực hiện cụ thể lại thiếu đồng lòng, quyết tâm, đôi khi mâu thuẫn vì những tiểu tiết. Khi cần đóng góp thì không ai có ý kiến gì, đến khi bắt đầu triển khai lại thiếu sự hiệp trợ xã hội, một ý chí, nhiều khi là sự thờ ơ, thậm chí là ngấm ngầm chống lại. Một đề án dù hay đến mấy vấp phải sự bất hợp tác là sẽ mất đi sức sống và sự lan tỏa.

Quy trình xây dựng đề án quốc gia thường bắt đầu từ chủ trương đúng, được Chính phủ giao xuống các Bộ, từ Bộ giao xuống các Vụ, đến tay một vài chuyên viên chấp bút, có thể không đủ kinh nghiệm và kiến thức. Cho dù các chuyên viên có một số ý hay, táo bạo, nhưng dần cũng bị cắt xén mài mòn khi thẩm định qua nhiều cấp, nên nhiều kế hoạch thường na ná như sau, thiếu sắc bén, không có gì sai, nhưng cũng chẳng thiết thực gì.
Bên cạnh đó, trong xã hội xuất hiện luồng quan điểm lạnh nhạt với khoa học công nghệ, cho rằng nghiên cứu phát triển không thiết thực, với những quan niệm ấu trĩ thiển cận như nhà khoa học phải có trách nhiệm sửa cầu, thiết kế cột điện, làm ốc vít, sản xuất ôtô. Nhiều nhà quản lý lại quan niệm đơn giản rằng nghiên cứu khoa học là việc của thế giới, công nghệ chỉ nên mua của nước ngoài, việc của chúng ta là khai thác, kinh doanh hoặc làm những việc cụ thể.
Ngoài ra, nhiều người cho rằng chiến lược, kế hoạch là việc quốc gia đại sự, là việc của nhà nước, hệ thống chính trị phải lo. Cách nghĩ thụ động như vậy làm các đề án của chúng ta mãi mãi ở trên giấy.
Tại khuôn viên các trường đại học ở châu Âu và Hoa Kỳ, tôi đã từng thấy các nhóm sinh viên năm dưới tranh luận về chính sách quốc gia, chiến lược toàn cầu và các xu thế của thời đại. Chính sách đối ngoại, chiến lược lớn của Mỹ trong nhiều năm được xây dựng trên cơ sở những tác phẩm của các nhà tư tưởng chiến lược, như "Va chạm giữa các nền văn minh" của Samuel Huntington và "Tận cùng của lịch sử" của Francis Fukuyama.v.v… Tư tưởng trong các bộ sách này cũng được manh nha và đúc kết từ các thảo luận trong các khuôn viên đại học, tranh luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Nói cách khác, kế hoạch, chiến lược quốc gia khi được thể hiện trên bút giấy, đều đã từng được xã hội quan tâm, gọt giũa cùng xây dựng các luận điểm chính và được các nhà tư tưởng đưa đến tầm khái quát mới. Chiến lược khoa học công nghệ là một vấn đề tinh tế, vừa đòi hỏi có tầm nhìn rộng về khoa học công nghệ, vừa phải hiểu biết sâu sắc các nhu cầu thực tế, lại phải nắm được xu thế thời đại, vừa cụ thể hóa được tầm nhìn của quốc gia, có lẽ cần phải được xây dựng theo một cách tiệm cận khác.
Về phần mình, tôi quan niệm rằng việc xây dựng chiến lược là nhiệm vụ của toàn thể xã hội và của mỗi người làm khoa học, vì vậy tôi bắt tay vào viết "Kế hoạch Ba Đình".
Đâu là bài học về phát triển khoa học công nghệ ở các nước mà theo ông Việt Nam nên tham khảo?
- Thứ nhất là Trung Quốc, nước láng giềng của chúng ta. Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ khi nhậm chức (năm 2012) luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển tổng thể của Trung Quốc. Ông nhiều lần khẳng định Trung Quốc cần "tự cường về công nghệ" và "độc lập đổi mới" để trở thành cường quốc.
Về cụ thể, bản chiến lược Khoa học Công nghệ mà Trung Quốc thực hiện trong hơn một thập kỷ qua do Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc Lộ Dũng Tường (về sau là Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc) chủ biên, với sự tham gia của gần 3.000 nhà khoa học. Bản chiến lược này chia thành 8 lĩnh vực với nhiều tham vọng.
Đến năm 2015, Trung Quốc công bố dự án "Chế tạo tại Trung Quốc 2025" (Made in China 2025). Đây là một sáng kiến nhằm đưa Trung Quốc thành siêu cường chế tạo cạnh tranh được với Mỹ.

Năm 2018, ông Tập Cận Bình đến thăm Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc đã quyết định đầu tư 10 tỷ đô la, nâng cấp phòng Xử lý dữ liệu và thông tin lượng tử, thuộc Viện Vật lý Hợp Phì thành Trung tâm Quốc gia. Tháng 12/2020, các nhà công nghệ Trung Quốc đã có thành công đột phá trong lĩnh vực tính toán lượng tử.
Một vài thông tin trên để chúng ta hình dung các bước đi vừa tổng thể, vừa cụ thể và rất nhất quán trong việc xác định khoa học công nghệ là động lực phát triển của Trung Quốc.
Thứ hai là bài học về dự án Manhattan (nghiên cứu và phát triển bom nguyên tử) của Mỹ. Ở đây tôi không nói đến việc làm bom nguyên tử, mà muốn nhấn mạnh về kinh nghiệm thực hiện một dự án lớn, có sự phối hợp từ khoa học đến chính trị, pháp lý, tạo sức lan tỏa rất lớn.
Một dự án lớn không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt mà còn tạo động lực kinh tế, nâng cao năng lực tổ chức, và lan tỏa tri thức ra xã hội. Việt Nam cần những cú hích như vậy để vượt qua tình trạng manh mún và thiếu đồng bộ hiện nay trong khoa học công nghệ.
Đề xuất cốt lõi của ông trong "Kế hoạch Ba Đình" là gì?
- Tôi hoàn thành bản kế hoạch này vào năm 2021, đến nay chắc là có nhiều điểm cần bổ sung. Nhưng về cơ bản, tôi cho rằng, khoa học công nghệ phải gắn với những mục tiêu sống còn của đất nước, phải được tổ chức và đầu tư tương xứng như những dự án chiến lược quốc gia, và phải thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống.

Muốn phát triển khoa học công nghệ, các giải pháp đưa ra phải mang tính đồng bộ, hệ thống, từ cải cách quản lý, phát triển nhân lực, tăng cường hợp tác đến đổi mới chính sách tài chính, sở hữu trí tuệ… Tôi nhấn mạnh đến việc thực hiện những dự án tầm cỡ như là cách để nhanh chóng nâng tầm năng lực khoa học công nghệ nước nhà, tương tự cách các cường quốc đã làm trong lịch sử .

Mới đây Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xin cho biết suy nghĩ của ông từ góc độ một nhà khoa học về Nghị quyết này?
- Tôi rất phấn khởi vì Nghị quyết đã nêu rõ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển đất nước.
Theo Nghị quyết, Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do Tổng Bí thư làm Trưởng Ban. Điều này cho thấy quyết tâm chính trị ở mức cao nhất, tạo niềm tin xã hội. Nhưng con đường còn dài, nhiều trở lực cần dọn dẹp.
Có ba vấn đề lớn. Thứ nhất là cơ chế tổ chức đội ngũ khoa học. Việt Nam không thiếu người giỏi, nhưng họ manh mún, mỗi người một góc, không phối hợp được. Teamwork (làm việc nhóm) là điểm yếu cố hữu của các nhà khoa học Việt Nam. Chúng ta quen làm một mình, giải bài toán cá nhân thì giỏi, nhưng chỉ cần 2-3 người hợp tác đã thấy phiền. Điều này dẫn đến tư duy "học phiệt" - chỉ có cách của tôi là đúng, thiếu trưởng thành trong nhận thức, chỉ tin vào chân lý duy nhất.

Thứ hai, chúng ta quá chú trọng chuyên môn hóa sâu mà bỏ qua khả năng tổng hợp, trong khi đây lại là yếu tố quan trọng để hợp tác và tạo ra sản phẩm thực tiễn.
Thứ ba là cơ chế đầu tư và ứng dụng. Nhiều dự án tôi làm cho nhà nước, ngay cả người quản lý cũng khuyên phải bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nếu không sẽ "tắc". Sau khi hoàn thành, nếu không cẩn thận, kết quả không thể thành sản phẩm vì vướng khung pháp lý: thuộc về ai, nhà nước hay cá nhân? Trước đây, mọi sở hữu trí tuệ thuộc nhà nước, nhưng nhà nước không khai thác, thành ra chỉ là đống giấy. Cơ chế này cản trở rất nhiều.
Ông đề xuất giải pháp nào cho những vấn đề trên?
- Tôi nghĩ phải vừa làm vừa gỡ, không thể đợi mọi thứ hoàn hảo mới bắt tay vào. Cách hiệu quả nhất là tập trung vào các dự án lớn, mang tính hệ sinh thái, giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội cụ thể. Một dự án khoa học công nghệ đầy tham vọng, nhằm mục đích giải quyết những bài toán lớn nhất của đất nước (ví dụ như: chống lũ lụt, hay khai thác và bảo vệ không gian biển) sẽ là thỏi nam châm thu hút trí tuệ của người Việt (và chuyên gia quốc tế) khắp nơi trên thế giới.
Gỡ nút thắt ở dự án lớn sẽ kéo theo nhiều giải pháp khác. Hay nói cách khác, một dự án lớn sẽ tạo ra được cơ chế phù hợp và tự thân nó sẽ tạo ra tiền bạc và nguồn lực, chứ không phải chúng ta cứ chờ có cơ chế và nguồn lực trước mới dám nghĩ đến chuyện lớn. Nếu cứ chờ đợi thì câu trả lời sẽ là: không bao giờ.
Trân trọng cảm ơn ông!