Miền Trung và tháng mưa dị thường nhất trong lịch sử khí tượng Việt Nam
(Dân trí) - Tháng 10 năm nay được xem là một trong những tháng mưa dị thường nhất trong lịch sử khí tượng Việt Nam. Tổ hợp hiếm thấy của nhiều hình thế thời tiết cực đoan cùng lúc đã tạo ra một đợt mưa kỷ đoan.
Những ngày qua, miền Trung phải gánh chịu hậu quả nặng nề của mưa lũ. Hàng loạt kỷ lục về mưa lũ đã được thiết lập.
"Cỗ máy mưa khổng lồ hoạt động liên tục trong nhiều ngày
Trao đổi với phóng viên Dân trí, TS. Trương Bá Kiên, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khí tượng khí hậu (Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu), nhận định tháng 10 năm nay được xem là một trong những tháng mưa dị thường nhất trong lịch sử khí tượng Việt Nam.
Theo ông Kiên, số liệu của Cục Khí tượng Thủy văn cho thấy cuối tháng 10 đã ghi nhận nhiều kỷ lục mưa trong 24 giờ bị phá vỡ tại các tỉnh Trung Bộ. Cuối tháng 10, hoàn lưu sau bão số 12 (bão Fengshen) kết hợp với không khí lạnh tăng cường mạnh, đới gió Đông ẩm và địa hình chắn gió của dãy Trường Sơn - Bạch Mã đã tạo nên đợt mưa "kỷ lục của các kỷ lục" ở Trung Bộ.
Ngày 27/10, trạm Nam Đông (Huế) mưa 968mm, cao hơn kỷ lục năm 2007 khoảng 260mm; riêng đỉnh Bạch Mã đạt 1.739.6mm/24 giờ - gần bằng lượng mưa trung bình cả năm của Việt Nam và được ghi nhận là lượng mưa trong 1 ngày lớn thứ 2 thế giới, chỉ sau lượng mưa 1.825mm ở đảo Réunion (Pháp) năm 1966.

Nhiều nơi ở Huế chìm trong biển nước nhiều ngày (Ảnh: Anh Tuấn).
Ông Kiên cho biết tổ hợp hiếm thấy của nhiều hình thế thời tiết cực đoan cùng lúc để tạo ra một đợt mưa kỷ đoan (mưa bất thường, mưa vượt mức kỷ lục) nhất có thể, hình thành nên "cỗ máy mưa khổng lồ hoạt động liên tục trong nhiều ngày.
Một là không khí lạnh tăng cường liên tục từ phía Bắc: Khối không khí lạnh từ lục địa Trung Quốc tràn xuống, gặp vùng biển ẩm Trung Bộ tạo nên dòng gió Đông Bắc lạnh - ẩm cực mạnh. Khi bị dãy Trường Sơn và Bạch Mã chặn lại, dòng khí ẩm bị ép bốc dâng, ngưng tụ mãnh liệt gây mưa rất to, kéo dài nhiều ngày.
Hai là dải hội tụ nhiệt đới (ITCZ) và vùng áp thấp ngoài khơi: Dải ITCZ nằm ngang qua Trung Bộ, đồng thời trên dải này hình thành một vùng áp thấp ngoài khơi làm hơi ẩm từ Biển Đông được "bơm" liên tục vào đất liền, duy trì mưa suốt ngày đêm, tập trung ở Huế - Đà Nẵng.
Ba là nhiễu động trong đới gió đông ở tầng thấp và trung: Các nhiễu động quy mô trung bình di chuyển chậm trong đới gió đông đã tạo ra các dải mây đối lưu lặp lại liên tục, khiến mưa ở khu vực Huế - Bạch Mã dồn dập hết đợt này đến đợt khác.
Bốn là địa hình "phễu đón gió" đặc biệt của dãy Trường Sơn và Bạch Mã: Bạch Mã là dải núi cao trên 1.400m, cách biển chỉ 12-15km, sườn núi hướng Đông - Đông Nam - Đông Bắc, trùng với hướng gió ẩm chính từ biển. Khi gió gặp địa hình dốc tới 100m/km, hơi ẩm bị dồn nén và bốc dâng cực mạnh, tạo ra mưa địa hình lớn nhất nước ta.
Ngoài ra, ông Kiên cũng cho rằng biến đổi khí hậu toàn cầu cũng đóng vai trò nền tảng trong các hiện tượng này. Theo Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), khí quyển ấm lên chứa nhiều hơi ẩm hơn khiến các đợt mưa cực đoan trở nên mạnh, tập trung và khó dự báo hơn.
Đáng chú ý, trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, không chỉ hàm lượng hơi ẩm trong khí quyển tăng gây mưa cực đoan mạnh hơn và tập trung hơn, mà hoàn lưu quy mô lớn của khí quyển, đại dương cũng đang biến đổi, theo ông Kiên.
Vị chuyên gia cho biết các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng áp cao cận nhiệt đới Tây Thái Bình Dương có xu thế dịch về phía tây và mở rộng biên độ hoạt động, làm thay đổi đường đi và tốc độ di chuyển của bão; đồng thời gió mùa Đông Bắc và các dao động nội mùa (MJO, Kelvin, Rossby) có xu hướng hoạt động mạnh hơn và biến thiên thất thường hơn.
"Những thay đổi này khiến các hình thế thời tiết cực đoan dễ chồng lấn và cộng hưởng, làm gia tăng xác suất xuất hiện tổ hợp bất lợi nhất của các yếu tố bất lợi như đã xảy ra trong tháng 10. Tháng 10 năm nay là minh chứng rõ nét cho xu thế gia tăng các hiện tượng tổ hợp cực đoan ở Việt Nam trong bối cảnh nóng lên toàn cầu - biến đổi khí hậu", ông Kiên phân tích.

Khu vực di tích Đại nội Huế ngập sâu nhiều ngày (Ảnh: Anh Tuấn).
Một phần do con người
Ông Kiên nhận định, bên cạnh các nguyên nhân khách quan từ tự nhiên và khí hậu, các nguyên nhân chủ quan cũng góp phần đáng kể làm trầm trọng thêm thiệt hại do đợt mưa lũ lịch sử vừa qua.
Thứ nhất, quá trình thay đổi sử dụng đất và biến đổi thảm phủ bề mặt trong nhiều năm gần đây đã làm suy giảm nghiêm trọng khả năng điều tiết tự nhiên của các lưu vực sông.
Ông Kiên cho rằng việc chuyển đổi rừng, đất nông nghiệp, ao hồ tự nhiên thành đất đô thị, khu dân cư và hạ tầng công nghiệp đã làm giảm diện tích thấm nước và khả năng trữ nước tự nhiên của mặt đất.
Khi mưa lớn xuất hiện, lượng nước mưa không kịp thấm xuống tầng đất mà chảy tràn nhanh vào hệ thống sông suối, gây tăng đột biến dòng chảy lũ và ngập úng đô thị.
Đặc biệt, tại các khu vực Trung Bộ, rừng đầu nguồn bị suy giảm không chỉ làm giảm khả năng giữ nước mà còn khiến đất đá dễ bị rửa trôi, dẫn đến sạt lở và lũ quét ngày càng nghiêm trọng.

Nhiều nơi ở Đà Nẵng ngập sâu, lực lượng chức năng hỗ trợ người dân đến nơi an toàn (Ảnh: Hoài Sơn).
Thứ hai, quy hoạch phát triển đô thị và hạ tầng thiếu đồng bộ với quy hoạch thoát lũ. Nhiều thành phố ở Trung Bộ mở rộng nhanh trong khi hệ thống tiêu thoát nước, hồ điều hòa, kênh dẫn và trạm bơm chưa được nâng cấp tương ứng. Khi mưa cực đoan xảy ra, nước bị dồn ứ, không có lối thoát, gây ngập sâu kéo dài.
Không ít khu công nghiệp và khu dân cư mới được xây dựng ngay trên vùng trũng và hành lang thoát lũ tự nhiên, khiến dòng chảy bị thu hẹp, khả năng tiêu thoát của lưu vực giảm mạnh.
"Đây là nguyên nhân khiến nhiều đô thị trung du và ven biển ngập nặng dù lượng mưa không vượt quá ngưỡng thiết kế ban đầu", ông Kiên nêu rõ.
Thứ ba, công tác vận hành hồ chứa và quản lý nguồn nước còn tồn tại nhiều bất cập.
Theo ông Kiên, một số hồ thủy điện và thủy lợi lớn vẫn vận hành rời rạc, chưa thực hiện đúng cơ chế liên hồ theo vùng lưu vực. Khi mưa cực lớn xảy ra đồng thời trên diện rộng, việc xả lũ thiếu phối hợp hoặc chậm trễ có thể khiến vùng hạ du chịu áp lực nước dồn lớn, gây ngập lụt đột ngột. Trong khi đó, năng lực giám sát, truyền số liệu tự động và dự báo ngắn hạn của nhiều trạm vẫn còn hạn chế.
Thứ tư, công tác quy hoạch dân cư, tái định cư và bảo vệ môi trường lưu vực còn nhiều bất cập.
Ông Kiên cho rằng nhiều hộ dân vẫn sinh sống ở ven sông, vùng chân núi, hoặc nơi có nguy cơ sạt lở cao do chưa có điều kiện di dời. Một số khu vực hạ tầng yếu kém, thiếu hệ thống cảnh báo tại chỗ, khiến người dân không kịp ứng phó khi lũ đến nhanh.
Thứ năm, năng lực dự báo, cảnh báo và quản trị rủi ro ở cấp cơ sở vẫn là "mắt xích yếu".
Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khí tượng khí hậu cho biết dù hệ thống dự báo quốc gia đã đạt nhiều tiến bộ, nhưng việc chuyển tải thông tin tới chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư còn chậm. Nhiều địa phương chưa xây dựng được kịch bản ứng phó cụ thể cho từng cấp độ rủi ro thiên tai, dẫn đến tình trạng bị động trong điều hành và sơ tán dân.
"Tổng hòa các yếu tố này khiến thiệt hại trong các đợt mưa lũ cực đoan gia tăng nhanh cả về phạm vi và mức độ. Điều đáng nói là nếu các yếu tố nhân sinh được quản lý tốt hơn - từ quy hoạch sử dụng đất, bảo vệ rừng, vận hành hồ chứa đến hệ thống cảnh báo... thì tác động của mưa lũ, dù cực đoan nhưng vẫn có thể được giảm nhẹ đáng kể", ông Kiên nêu ý kiến.

Mưa lũ gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Trung (Ảnh: Phước Tuần).
Cần triển khai các nhóm giải pháp tổng thể, đồng bộ
Để đối phó hiệu quả với xu thế mưa lũ cực đoan ngày càng gia tăng cả về cường độ lẫn tần suất, ông Kiên cho rằng Việt Nam cần triển khai các nhóm giải pháp tổng thể, đồng bộ từ trước, trong và sau thiên tai, kết hợp giữa khoa học công nghệ hiện đại, quản trị lưu vực và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về ngắn hạn - Chủ động ứng phó và cảnh báo sớm. Ông Kiên cho rằng cần nâng cấp toàn diện hệ thống dự báo, cảnh báo mưa lũ theo thời gian thực, tích hợp dữ liệu khí tượng, thủy văn, radar thời tiết, hồ chứa và mô hình địa hình số.
Cùng với đó, cần ứng dụng AI, Big Data và mô hình tổ hợp đa mô hình để nhận dạng sớm các tổ hợp thời tiết nguy hiểm 3-5 ngày trước khi xảy ra.
Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông cảnh báo đa kênh, đặc biệt hướng đến cộng đồng vùng sâu, vùng núi, vùng ven sông - nơi dễ bị cô lập khi mưa lũ lớn. Cảnh báo phải đến "tận người dân" qua tin nhắn SMS, Zalo, app dự báo, loa phường, đài truyền thanh, truyền hình và mạng xã hội địa phương.
Đồng thời, tổ chức diễn tập định kỳ phương án "bốn tại chỗ" (chỉ huy, lực lượng, phương tiện, hậu cần tại chỗ) và cập nhật kịch bản ứng phó theo từng cấp độ rủi ro.
Ngoài ra, cần kích hoạt cơ chế điều hành khẩn cấp liên vùng, đảm bảo sự phối hợp giữa các tỉnh thượng lưu, hạ lưu và giữa ngành khí tượng thủy văn, phòng chống thiên tai, thủy điện, giao thông, nông nghiệp.

Rác thải bủa vây bờ biển ở Đà Nẵng sau mưa lũ (Ảnh: Hoài Sơn).
Về trung hạn - Quản lý tổng hợp rủi ro và thích ứng theo lưu vực. Theo ông Kiên, cần rà soát và chuẩn hóa quy trình vận hành liên hồ chứa, đặc biệt trên các hệ thống sông lớn và cả các sông nhỏ. Cần mở rộng quy trình từ "liên hồ" sang "đa hồ - liên lưu vực", có trung tâm điều hành chung sử dụng dữ liệu thời gian thực, mô phỏng thủy lực và mưa dự báo.
Cùng với đó, cần siết chặt quản lý các hồ thủy lợi, hồ sinh thái nhỏ. Trong đó, yêu cầu thẩm định, giám sát an toàn đập, tính toán lại dung tích phòng lũ theo các sự kiện cực đoan tần suất 50-100 năm, bảo đảm vận hành đúng quy định xả điều tiết và an toàn hạ du.
Ông Kiên nhấn mạnh cần tăng cường phủ xanh đầu nguồn và bảo tồn thảm thực vật tự nhiên như phục hồi rừng phòng hộ, rừng ven biển và các vùng đồi trọc nhằm giảm dòng chảy mặt, chống xói mòn và sạt lở.
Bên cạnh đó, cần xây dựng bản đồ rủi ro mưa lũ, sạt lở chi tiết đến cấp xã (có thể dưới cấp xã), kết hợp dữ liệu vệ tinh, radar, LiDAR và mô hình địa hình số (DEM)...
Ông Kiên cũng cho rằng cần đầu tư hạ tầng xanh và đô thị "thấm nước", trong đó mở rộng hồ điều hòa, công viên sinh thái, hành lang thoát lũ tự nhiên, hạn chế bê tông hóa bề mặt đô thị.
Vị chuyên gia nhấn mạnh cần thiết lập cơ chế điều phối vùng và chia sẻ dữ liệu giữa các địa phương, bảo đảm quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội không xung đột với hành lang thoát lũ.

Đại diện báo Dân trí tặng túi an sinh cho người dân vùng bị ảnh hưởng do mưa lũ ở Huế (Ảnh: Vi Thảo).
Về dài hạn - Chuyển đổi mô hình phát triển và thích ứng bền vững.
Theo vị chuyên gia, cần lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các chiến lược phát triển hạ tầng. Trung Bộ cần được xem là vùng trọng điểm quản lý theo lưu vực, chứ không chỉ theo ranh giới hành chính.
Cơ quan chức năng cũng cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đa thiên tai, kết hợp mô hình số, AI, IoT và cảm biến tự động, bảo đảm mọi cấp từ trung ương tới xã đều nhận được cảnh báo sớm, chính xác và có thể hành động.
Bên cạnh đó, ông Kiên cho rằng cần thiết lập "Bản sao số - Digital Twin cho vùng Trung Bộ" để mô phỏng các kịch bản bão, lũ, sạt lở, nước biển dâng; phục vụ quy hoạch hạ tầng, giao thông, đô thị, và vùng ven biển an toàn.
Theo ông Kiên, cần xây dựng năng lực quản trị rủi ro khí hậu cho chính quyền địa phương, trong đó đưa tiêu chí "khả năng chống chịu với khí hậu cực đoan" vào đánh giá quy hoạch, cấp phép xây dựng, đầu tư công.
Cùng với đó, vị chuyên gia nhấn mạnh phải thúc đẩy chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng "dựa vào thiên nhiên", phát triển kinh tế xanh, hạ tầng bền vững, giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ carbon của rừng, đất ngập nước.
Đồng thời, xây dựng văn hóa ứng phó chủ động và cộng đồng an toàn, trong đó người dân được tập huấn, trang bị kỹ năng tự bảo vệ, biết sử dụng thông tin dự báo để ra quyết định nhanh chóng trong thiên tai..., theo góp ý của Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khí tượng khí hậu.





















