4 lần cải cách tiền lương thay đổi cuộc sống của người làm công ăn lương
(Dân trí) - Hơn nửa thế kỷ qua, hệ thống chính trị Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc cải cách tiền lương, thể hiện sự quan tâm tới đời sống người lao động.

Theo tư liệu do PGS.TS Nguyễn Thị Lan Hương, nguyên Viện trưởng, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, nêu trong cuốn “Lịch sử, truyền thống và định hướng phát triển của Bộ Nội vụ giai đoạn 2025-2045”, chính sách tiền lương khu vực công luôn là vấn đề quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động của hệ thống hành chính ở mỗi quốc gia.
Tiền lương và thu nhập của công chức, viên chức được xác định là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Đổi mới chính sách tiền lương khu vực công cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm như là một trong các giải pháp cốt yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và nền hành chính nói riêng.
Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã trải qua 4 lần cải cách tiền lương. Trong đó, lần cải cách gần nhất là từ năm 2004, cách đây hơn 20 năm.

Cửa hàng mậu dịch phục vụ Tết Bính Thân 1956 tại Hà Nội (Ảnh: TTXVN).
Lần đầu thực hiện hệ thống tiền lương chính thức
Năm 1960, lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện một hệ thống lương chính thức, hoàn thiện hệ thống tiền lương trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Sau hòa bình lập lại, nhu cầu xây dựng một hệ thống tiền lương phù hợp với cơ chế quản lý mới được xác định là rất cấp thiết.
Thời điểm đó, nhà nước quản lý tiền lương theo cơ chế bao cấp, gắn với phân phối hiện vật và tem phiếu. Tiền lương vẫn được xem là công cụ chính trị - xã hội, không hoàn toàn phản ánh giá trị thị trường.
Trong giai đoạn 1960-1984, chế độ lương của cán bộ, công chức, viên chức được quy định theo nguyên tắc lương theo chức vụ và điều kiện lao động. Người làm việc trong môi trường độc hại, khó khăn được hưởng lương cao hơn; nhận lương trên nguyên tắc phân phối theo lao động, ai làm nhiều, làm khó thì hưởng nhiều hơn; lương lãnh đạo cao hơn nhân viên, phản ánh trách nhiệm và yêu cầu công việc.

Quang cảnh bên ngoài một phòng bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân TP Hà Nội tại Ô Chợ Dừa - Hà Nội (Ảnh: Tư liệu).
Ngoài ra, chức vụ thay đổi thì lương thay đổi theo, đảm bảo tính động trong quản lý nhân sự. Lương cố định, ít gắn với năng suất, do nền kinh tế chưa vận hành theo cơ chế thị trường.
Trong lần cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992, nền kinh tế bắt đầu chuyển từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Lạm phát tăng cao sau cải cách năm 1985, khiến tiền lương thực tế bị giảm mạnh.
Lúc này, việc điều chỉnh lương để ổn định đời sống người lao động được xác định trở thành mục tiêu cấp thiết.
Vì vậy, năm 1985, nhà nước ban hành Nghị định số 235 cải cách chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang; Quyết định số 202 (năm 1988) tăng lương tối thiểu lên 22.500 đồng/tháng.
Lần đầu tiên, nước ta có hệ thống trả lương gắn với chức vụ và công việc cụ thể, nghĩa là ai làm việc gì thì hưởng lương theo vị trí đó. Chính sách trả lương có sự phân biệt tương đối rõ về cơ chế quản lý giữa khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang; giữa khu vực trong nước và nước ngoài, nhằm đảm bảo công bằng và thu hút đầu tư.
Ban hành kèm theo Nghị định này là các thang lương, bảng lương áp dụng thống nhất trong cả nước, với các bậc lương và hệ số lương rõ ràng hơn; có phân loại theo ngành nghề, trình độ chuyên môn, chức vụ; thể hiện sự phân biệt giữa cán bộ lãnh đạo, viên chức chuyên môn kỹ thuật và nhân viên phục vụ…
Cải cách tiền lương sau đổi mới
Năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 25 quy định tạm thời chế độ tiền lương mới cho công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang.
Nghị định nêu rõ mức lương tối thiểu được nâng lên 120.000 đồng/tháng, tương đương 60kg gạo. Đồng thời, tiền lương tối thiểu phải được thường xuyên điều chỉnh theo mức tăng của chỉ số giá để bảo đảm lương thực tế không bị giảm sút.
Một trong những nội dung cải cách chính sách tiền lương lần này là thay đổi kết cấu tiền lương từ việc phân phối gián tiếp sang phân phối trực tiếp trong tiền lương (tiền về nhà ở, bảo hiểm y tế, tiền học hành…). Trong đó, các quy định hướng đến việc bãi bỏ các chế độ bù tiền điện, tiền nhà ở, tiền học; phân biệt rõ hệ thống tiền lương của các loại hoạt động hành chính sự nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh.

Người dân dạo chơi trong công viên Thống Nhất sáng mồng một Tết Canh Tý 1960 (Ảnh: Minh Trường/TTXVN).
Hệ thống tiền lương hành chính sự nghiệp được quy định tạm thời với 4 bảng lương chính, gồm: Bảng lương chức vụ dân cử quản lý nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện; hệ thống bảng lương các ngạch công chức, viên chức và phụ cấp chức vụ lãnh đạo khu vực hành chính, sự nghiệp; hệ thống bảng lương sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp, phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp hạ sĩ quan và binh sĩ của lực lượng vũ trang; bảng lương chuyên gia cao cấp gồm 3 bậc với hệ số lương 7,5-8,0-8,5, áp dụng trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật.
Ngoài ra, nghị định còn quy định nhiều khoản phụ cấp lương như phụ cấp khu vực, độc hại, trách nhiệm, và làm đêm.
Hệ thống phụ cấp tiền lương của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang về cơ bản như các phụ cấp quy định trong hệ thống tiền lương năm 1985, nhưng quy định bằng phần trăm so với mức tiền lương tối thiểu.
Lương tăng 7,5 lần trong 20 năm
Đây là lần cải cách tiền lương gần nhất của nước ta, khi Nghị định số 204 được ban hành năm 2004, quy định chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang điều chỉnh mức lương quy định tối thiểu là 310.000 đồng/tháng.
Giai đoạn này đã đánh một dấu mốc quan trọng trong việc bắt đầu triển khai mức lương tối thiểu vùng từ năm 2007 (Nghị định số 167). Từ năm 2004 đến nay, mức lương cơ sở cũng đã được điều chỉnh nhiều lần, từ 290.000 đồng/tháng lên 2.340.000 đồng/tháng (từ ngày 1/7/2024).

Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt làm việc với lãnh đạo Bộ Nội vụ (2-2-2005) (Ảnh: Tư liệu).
Trong giai đoạn này, từ tháng 10/2024, quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa được điều chỉnh, nhằm thực hiện mở rộng giữa các mức. Hệ thống thang lương, bảng lương đã thu gọn một bước hệ thống ngạch, bậc lương, mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa các bậc lương.
Hệ thống thang bảng lương đã bao quát được các ngành, lĩnh vực và các đối tượng liên quan, không quá phức tạp, chồng chéo lẫn nhau và có sự cân đối hài hòa, đảm bảo tương quan giữa các đối tượng, các ngành và các lĩnh vực.
Theo Nghị định số 204 của Chính phủ, có 7 bảng lương chính được áp dụng cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước gồm cán bộ, công chức hành chính; viên chức sự nghiệp; quân nhân chuyên nghiệp, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ; công nhân quốc phòng, công nhân công an; cán bộ lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã; chuyên gia cao cấp; người làm việc trong tổ chức cơ yếu.
Ngoài ra, còn có các phụ cấp lương như: chức vụ, thâm niên, khu vực, độc hại, trách nhiệm, lưu động… được tính kèm theo hệ số lương cơ sở.
Hướng cải cách tách bạch bảng lương hành chính với bảng lương sự nghiệp để gắn với cơ chế hình thành nguồn trả lương, cách thức trả lương phù hợp với trao quyền tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về quản lý và sử dụng lao động và quản lý nguồn tài chính, tự chủ về trả lương cho người lao động trong đơn vị sự nghiệp.
Hệ số lương được quy định theo ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức.
Các chế độ phụ cấp lương được chia làm các nhóm như phụ cấp theo chức danh, tổ chức; phụ cấp theo vùng; điều kiện lao động của ngành nghề; thời gian công tác.
Những thành quả đạt được
Sau 65 năm, thông qua 4 lần cải cách tiền lương, nước ta đã tách bạch hệ thống tiền lương công chức nhà nước với các hệ thống tiền lương khác trong khu vực nhà nước, nhất là với tiền lương khu vực sản xuất, tiền lương khu vực sự nghiệp.
Tiền lương tối thiểu được từng bước hoàn thiện phương pháp xây dựng (tính toán) tiền lương tối thiểu; mức tiền lương tối thiểu thực tế ngày càng cao; chuyển từ tiền lương tối thiểu của khu vực nhà nước thành tiền lương tối thiểu của toàn xã hội và áp dụng chính sách tiền lương cơ sở cho khu vực nhà nước.
Ngoài ra, nước ta còn thành công mở rộng hệ số tiền lương (từ 1-1,32-3,5 vào năm 1985 lên 1-2,34-10 vào năm 2004); áp dụng chế độ phụ cấp chức vụ.


Nhìn tổng thể về chế độ tiền lương hiện nay, có thể thấy thành công lớn nhất là góp phần ổn định được kinh tế vĩ mô, hài hòa mối quan hệ giữa phân phối - tiêu dùng, ngân sách chia cho đầu tư phát triển, trả nợ và dự phòng, chứ không chỉ để dành chi thường xuyên (trong đó có trả lương).
Tiền lương khu vực công của cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, đặc biệt là tại các lĩnh vực, khu vực đặc biệt khó khăn từng bước cải thiện; góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người lao động.
Tiền lương từng bước phản ánh được năng lực cũng như cống hiến của người lao động; khuyến khích nâng cao năng lực, chuyên môn của người lao động. Mức lương cũng phản ánh lên được năng lực và cống hiến của người lao động; đồng thời cơ cấu, nâng cao đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, sắp xếp lại đầu mối và tinh gọn lại bộ máy...
PGS.TS Nguyễn Thị Lan Hương
Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội