Hai sắc lệnh đặt nền móng cho tổ chức chính quyền địa phương hiện nay
(Dân trí) - Từ năm 1945, Bộ Nội vụ đã tham mưu Chính phủ ban hành 2 sắc lệnh về tổ chức chính quyền nhân dân. Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên về tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta.

Xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chính quyền mới
PGS.TS Văn Tất Thu, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, là người có nhiều nghiên cứu về lịch sử Bộ Nội vụ, am hiểu sâu sắc ngành Tổ chức nhà nước từ xưa đến nay.
PGS.TS Văn Tất Thu từng công bố nhiều bài nghiên cứu về vai trò của Bộ Nội vụ cũng như những vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong thời kỳ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc, trong đó có Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nội vụ - nhà sử học Võ Nguyên Giáp.
Theo nghiên cứu của PGS.TS Văn Tất Thu, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, vào ngày 28/8/1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 13 bộ và 15 thành viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Người được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy giao giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ là nhà sử học Võ Nguyên Giáp.

Nhà sử học Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy, giao giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Ảnh: Tư liệu).
Không phụ lòng tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị của mình, Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã mang hết tài năng, trí tuệ đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng.
Theo PGS.TS Văn Tất Thu, đóng góp đặc biệt quan trọng đầu tiên của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp là đã tham mưu với Chính phủ lâm thời tiến hành đập tan bộ máy, các tổ chức phản động và xóa bỏ các chế độ, chính sách của chính quyền cũ.
Đồng thời, Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã tham mưu xây dựng thể chế, các chế độ, chính sách của chính quyền cách mạng, chính quyền dân chủ nhân dân theo tinh thần của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Theo PGS.TS Văn Tất Thu, sau Cách mạng Tháng Tám, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra cho Chính phủ là phải khẩn trương nghiên cứu tổ chức chính quyền địa phương. Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm Trưởng Ban nghiên cứu tổ chức chính quyền địa phương.
Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, Ban nghiên cứu đã trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở nông thôn, các thị xã, thành phố.
PGS.TS Văn Tất Thu nhận định: “Hai Sắc lệnh này là những văn bản pháp lý đầu tiên về tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta. Các quy định đó còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay”.
Chính quyền nhân dân ở địa phương
Ngày 4/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo “Thiếu óc tổ chức - một khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân” đăng trên báo Cứu quốc số 58 dưới bút danh Chiến Thắng.
Trong bài báo, Bác Hồ chỉ rõ thực trạng: “Chính quyền nhân dân thành lập đã được hơn một tháng. Nhưng nhiều nơi cách làm việc vẫn chưa đâu vào đâu cả. Ta có thể nói: một khuyết điểm lớn, chung cho cả phần đông các Ủy ban nhân dân là bệnh lộn xộn, thiếu tổ chức”.
Bài báo nêu rõ các khuyết điểm của bộ máy ủy ban thời điểm đó như tổ chức bên trong chưa thống nhất, các vị trí lãnh đạo chưa rõ việc, nhân viên thì có người không làm gì nhưng cũng có người "bù đầu rối óc" vì một mình phải kiêm nhiều việc…
Trong tình thế lịch sử đó, sau khi nghiên cứu soạn thảo, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đề nghị và Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ký ban hành Sắc lệnh số 63 ấn định việc tổ chức chính quyền nhân dân ở địa phương vào ngày 22/11/1945.

Sắc lệnh 66-SL được ban hành chỉ vài tháng sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập (Nguồn: Sưu tập sắc lệnh năm 1945 tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III).
Ngay tại điều thứ nhất, Sắc lệnh 63-SL đã nêu rõ chính quyền nhân dân ở địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính (tương tự như Ủy ban nhân dân hiện nay).
Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra, là cơ quan thay mặt cho dân.
Ủy ban hành chính do các hội đồng nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính, vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho Chính phủ.
Ở hai cấp xã và tỉnh có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, ở cấp huyện và kỳ chỉ có Ủy ban hành chính.
Sắc lệnh 63-SL quy định rõ cách tổ chức, quyền hạn và cách làm việc của các cơ quan nói trên ở từng cấp chính quyền.
Trong đó, Sắc lệnh 63-SL quy định cụ thể số lượng đại biểu (Sắc lệnh 63-SL gọi là hội viên) được bầu trong mỗi Hội đồng nhân dân cấp xã, cấp tỉnh; điều kiện để được đi bầu cử, thể lệ bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm… Những quy định này cơ bản vẫn còn duy trì cho đến nay.
Danh từ “cử tri” cũng đã được nêu trong Sắc lệnh 63-SL và quy định nghiêm ngặt cách thức xác định danh sách cử tri, những người có quyền bỏ phiếu bầu ra các hội viên Hội đồng nhân dân, đại diện cho quyền lợi của mình.

Một buổi họp chính quyền dân chủ nhân dân năm 1945 (Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản).
Đặc biệt, Sắc lệnh 63-SL quy định rất chi tiết cách tổ chức Ủy ban hành chính của từng cấp chính quyền địa phương, từ xã cho đến huyện, tỉnh, kỳ.
Cơ quan hành chính ở mỗi cấp đều được quy định chi tiết về số lượng cán bộ, các chức danh lãnh đạo, quản lý; điều kiện để được bầu vào Ủy ban hành chính; thể lệ bầu cử; phối hợp làm việc giữa hai cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính…
Trong đó, những chức danh như chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên ủy ban; hay những quy định như bỏ phiếu tín nhiệm, cách chức ủy viên ủy ban… cơ bản vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay.
Tại Chương II, Sắc lệnh 63-SL còn quy định rõ ràng, phân biệt quyền hạn và phân công nhiệm vụ của cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính từng cấp.
Đặc biệt, quyền hạn và phân công của Ủy ban hành chính được phân định rất cụ thể theo từng lĩnh vực, chức danh phụ trách từng nhiệm vụ rõ ràng để tránh chồng chéo, không rõ việc.
Bộ máy nhà nước tại các thành phố, thị xã
Từ quy định chung về tổ chức chính quyền nhân dân ở địa phương theo Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ tiếp tục đề nghị và Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ký ban hành Sắc lệnh số 77 vào ngày 21/12/1945 về việc tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố.
Sắc lệnh 77-SL thể hiện rất rõ việc Chính phủ xây dựng cơ chế đặc thù cho chính quyền nhân dân ở khu vực đô thị cũng như tính tới đặc thù của từng đô thị cụ thể.

Sắc lệnh 77-SL thể hiện rõ tầm nhìn của Chính phủ khi có cơ chế riêng cho đơn vị hành chính đặc thù (Nguồn: Sưu tập sắc lệnh năm 1945 tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III).
Tại sắc lệnh này, Chính phủ công nhận Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt và Sài Gòn – Chợ Lớn là thành phố.
Thành phố Hà Nội được đặt trực tiếp dưới quyền Chính phủ Trung ương, còn các thành phố khác thuộc quyền các kỳ.
Theo Sắc lệnh 77-SL, ngoại trừ các thành phố trên, các tỉnh lỵ, nơi đô hội mà lâu nay về mặt hành chính được tính biệt lập và lệ thuộc trực tiếp với tỉnh từ thời điểm 21/12/1945 được gọi là thị xã.
Cách tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã giống như tổ chức ở các xã theo Sắc lệnh 63-SL, tức là bao gồm Hội đồng nhân dân thị xã và Ủy ban hành chính thị xã. Tuy nhiên, có điểm khác là chính quyền thị xã sẽ trực thuộc sự quản lý của tỉnh.
Cách tổ chức chính quyền nhân dân ở các thành phố thì khác với chính quyền địa phương các cấp theo Sắc lệnh 63-SL. Mỗi thành phố đặt 3 cơ quan là Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban hành chính thành phố và Ủy ban hành chính khu phố.
Riêng thành phố Đà Lạt là không có Hội đồng nhân dân thành phố và Ủy ban hành chính thành phố mà chỉ có Ủy ban hành chính khu phố. Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính tỉnh Lâm Viên kiêm luôn nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính thành phố Đà Lạt.
Hội đồng nhân dân thành phố và Ủy ban hành chính thành phố có cách thức bầu cử, cách thức tổ chức, làm việc, nhiệm vụ quyền hạn… gần giống như chính quyền địa phương các cấp theo Sắc lệnh 63-SL.
Ở các khu phố thì tổ chức một cơ quan duy nhất là Ủy ban hành chính khu phố do dân khu phố bầu ra, là cơ quan vừa thay mặt cho dân khu phố, vừa thay mặt cho Chính phủ.
Về số lượng hội viên Hội đồng nhân dân thành phố, mỗi thành phố (trừ Đà Lạt) có 20 hội viên thực thụ và 4 hội viên dự khuyết. Riêng ở Hà Nội và Sài Gòn – Chợ Lớn có đến 30 hội viên thực thụ và 6 hội viên dự khuyết.
Điểm khác biệt lớn nhất với Sắc lệnh 63-SL là Sắc lệnh 77-SL có một chương dành riêng để quy định về tổ chức Ủy ban hành chính khu phố.
Theo đó, mỗi khu phố đặt một Ủy ban hành chính khu phố gồm 3 ủy viên chính thức (1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 1 thư ký) và 2 ủy viên dự khuyết.
Các ủy viên này lại là do cử tri có nguyên quán hoặc trú ngụ tại khu phố bầu ra. Đặc biệt, khi 2/5 số cử tri yêu cầu phúc quyết Ủy ban hành chính khu phố thì ủy ban phải tổ chức ngay cuộc bỏ phiếu tín nhiệm. Khi hơn 1/2 tổng số cử tri bỏ phiếu không tín nhiệm thì Ủy ban hành chính khu phố buộc phải từ chức.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2011.
2. Lịch sử Bộ Nội vụ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2005.
3. PGS.TS Văn Tất Thu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn các Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong thời kỳ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc, Tạp chí Tổ chức nhà nước.
4. Sưu tập sắc lệnh của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, năm 2011.