DNews

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975

Bích Phương

(Dân trí) - Lý lịch ông Tư Cang trong hồ sơ mật của địch chỉ vỏn vẹn vài dòng: "Phó Chính ủy tình báo Miền, người trắng, cao, bắn súng hai tay, thích văn nghệ. Quê quán: Chưa xác định. Gia đình: Chưa xác định".

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975

Mới đây, bức ảnh Đại tá Tư Cang - chiến sĩ tình báo hoạt động bí mật trong nội thành Sài Gòn - bên gia đình gây sốt mạng xã hội. Nhiều người cho rằng, đây là khoảnh khắc ông Tư Cang đoàn tụ với vợ con sau gần 30 năm biệt tích sống trong thân phận khác. Ngày chiến thắng 30/4/1975, ông mới được trở về, công khai danh tính... 

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 1

Bức ảnh Đại tá tình báo Tư Cang đoàn tụ gia đình gây sốt mạng (Ảnh: Nhân vật cung cấp).

Chia sẻ với phóng viên Dân trí, Đại tá Tư Cang cho biết, thực tế bức ảnh được chụp năm 1976. Thời điểm đó, vợ, con gái và cháu ngoại lên thăm doanh trại khi ông giữ cương vị Chính ủy Trung đoàn 316 (sau 30/4/1975, Lữ đoàn 316 thu hẹp quy mô thành Trung đoàn), đơn vị trấn giữ biên giới Bình Long. Tuy nhiên, do đặc thù công việc tình báo, chuyện ông phải xa gia đình cắt đứt liên lạc suốt 28 năm là có thật.

Trong sự nghiệp hoạt động cách mạng, vị Đại tá tình báo lừng lẫy Tư Cang chỉ được ở trọn vẹn bên người vợ thân yêu vài tháng ngắn ngủi, sau đó là 28 năm biệt tích, xa gia đình. Những năm làm chỉ huy cụm tình báo, ông đổi tên, sống với nhiều vỏ bọc để che giấu thân phận, chưa từng ghé thăm nhà dù gần trong gang tấc. Lúc đoàn tụ vợ con, Đại tá Tư Cang 47 tuổi, lần đầu bế cháu ngoại trên tay...

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 2

Đại tá Tư Cang chia sẻ về chuyện tình cảm với bạn đời quá cố trong cuộc trò chuyện với phóng viên Dân trí (Ảnh: Trịnh Nguyễn).

Cuộc đoàn tụ 12h đêm 30/4/1975 sau gần 30 năm biệt tích gia đình

Ngày kết thúc chiến tranh ở Sài Gòn, ông Tư Cang đi vào Bộ Tổng Tham mưu chế độ cũ, phát hiện một danh sách các cán bộ của Việt Cộng mà địch cất công điều tra, theo dõi. Tên ông có trong danh sách, nhưng Mỹ và chế độ cũ không có ảnh, cũng không nắm được nhiều thông tin về ông, ngoài vài dòng "chưa xác định".

Để Đại tá Tư Cang có lý lịch "như tờ giấy trắng" với vỏ bọc hoàn hảo, kín kẽ và chưa từng bị lộ thân thế gia đình, không thể không có sự hy sinh, giúp sức của vợ ông, bà Trần Ngọc Ảnh. 

"Vợ thương tôi nhiều lắm. Không thương, làm sao bà ấy chịu đựng, hy sinh, một mình nuôi con để chồng đi biền biệt, ngăn cách gần 30 năm không về.

Thời ở miền Bắc, tôi làm mấy câu thơ tặng vợ. Kháng chiến 9 năm tròn không nghỉ/ Pháp rút rồi đến Mỹ vào thêm/ Nhiệm vụ chưa tròn, anh tiếp tục ra đi/ Người miền Bắc, kẻ miền Nam, lòng vô vàn thương nhớ/ Những lúc rảnh tâm hồn anh hướng về chốn cũ/ Nhớ vợ hiền và nhớ cả quê hương", Đại tá Tư Cang đỏ hoe mắt, nhắc về người vợ quá cố trong cuộc trò chuyện với phóng viên Dân trí. 

Tối muộn ngày 30/4/1975, phố phường Sài Gòn dứt tiếng súng, chiến tranh kết thúc, cuộc sống người dân trở về nhịp bình yên.

Trên chiếc xe jeep lấy được của một viên Trung tá chế độ cũ, Chính ủy Lữ đoàn 316 Tư Cang đi từ Lý Thái Tổ hướng về cầu Thị Nghè, ngập ngừng muốn rẽ vào con hẻm nơi người vợ thân yêu của ông đang sống.

Bao năm qua, ông đã thuộc nằm lòng con đường này, nhưng chưa một lần được đoàn tụ gia đình. Giây phút này là lần đầu tiên ông đi trên phố, hướng mắt về khu phố Thị Nghè mà không phải lo sợ cái chết treo lơ lửng trên đầu, không sợ sự hiện diện của mình sẽ gây nguy hại cho vợ con, địch phát giác được thân thế, gia đình. 

Dù vậy, vì cuộc gặp cán bộ biệt động vùng Hàng Xanh chưa hoàn tất, ông nhấn ga đi thẳng. "Chốc nữa anh sẽ trở lại tìm em, bây giờ thì nhiệm vụ trước đã", Đại tá Tư Cang nghĩ thầm.

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 3

Ông Tư Cang (hàng đứng, thứ ba từ phải sang) cùng chiến sĩ Lữ đoàn 316 tại Hóc Môn, sáng 30/4/1975 (Ảnh: Nhân vật cung cấp).

Đến gần nửa đêm, vị Đại tá hồi hộp quay xe về làng Thạnh Mỹ Tây. Bóng tối bao trùm, không gian tĩnh mịch, lờ mờ hiện ra khu cư xá nằm giữa những dãy nhà trệt, chìm sâu trong xóm lao động. Không biết chính xác căn nhà nào, ông liền cất tiếng gọi "Nhồng ơi! Nhồng!" nhiều lần. 

Đại tá kể, thời tập kết ở chiến khu miền Bắc, vợ từng gửi cho ông bức thư, trong đó viết rằng con gái được đặt tên Nhồng, để nhớ về một loài chim quý ở quê hương. Nhiều năm trôi qua, ông vẫn thích gọi con bằng cái tên thân mật thời ở quê.

Giữa bóng đêm, hai người đàn ông cầm đèn pin, bước ra nói với Tư Cang rằng ở đây không có ai tên Nhồng. "À, hai ông có biết hai mẹ con cùng đi làm ngân hàng không?", ông Tư Cang giải thích. Sau đó, vị Đại tá được chỉ về căn số 9 trong cư xá. 

Ngọn đèn trong nhà bật sáng. Tiếng bà Ngọc Ảnh vang lên từ phía sau cánh cửa, xen lẫn âm thanh mở ổ khóa lách cách: "Anh về hả? Em biết mà, gọi tên Nhồng, em biết chỉ có anh".

Bà Ảnh mừng rỡ, chạy ra giọng líu ríu, đứt quãng. Đại tá Tư Cang xúc động ôm lấy bạn đời, đặt lên trán nụ hôn thắm thiết. Chị Giang, năm đó 28 tuổi, con gái ông Tư Cang, vội vàng đánh thức đứa con 3 tuổi: "Con ơi, dậy ra đón ông ngoại về". 

Sau gần 30 năm chiến đấu, đêm nay, hạnh phúc thật sự trong vòng tay, vậy mà người chiến sĩ vẫn ngỡ là giấc mơ.

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 4

Tháng 5/1961, Đại úy Trần Văn Quang (tức Nguyễn Văn Tàu) từ miền Bắc chuẩn bị lên đường vào Nam đánh giặc, với tên mới Tư Cang (Ảnh: Nhân vật cung cấp).

"Tôi làm cách mạng từ năm 1947. Khi ấy thoát ly theo Việt Minh, vợ tôi mới mang bầu được vài tháng. Ngày vợ sinh, tôi không có mặt. Con gái lấy chồng, tôi cũng không biết. Sau gần 30 năm chiến đấu biền biệt, trải qua 2 cuộc kháng chiến, che giấu thân phận, cuối cùng tôi cũng được gặp mặt con gái và cháu ngoại.

Lúc đi là chàng trai 19 tuổi, chưa được bế con gái trên tay, lúc về thành ông ngoại đầu điểm bạc, có cháu 3 tuổi bập bẹ ra chào người ông bộ đội", nguyên Chính ủy Lữ đoàn 316 bồi hồi nhớ về giây phút hội ngộ với phóng viên Dân trí.

Ông kể, sáng 30/4/1975, vợ con ông đã chạy ra đường gặp các chiến sĩ cách mạng trên đoàn xe tăng để hỏi thăm tin tức về ông, nhưng không ai hay biết ông còn sống hay đã hy sinh. Phút gặp lại, người bạn đời bật khóc nức nở.

"Tôi lột chiếc khăn rằn quấn cổ ra lau nước mắt cho vợ tôi. Dù biết tâm hồn người phụ nữ ấy tràn ngập nỗi vui mừng ngày sum họp, tôi vẫn nói: Sao em lại khóc? Vui lên chứ!...

Những ngày mùa đông băng giá qua rồi, nay là mùa xuân của dân tộc, mùa xuân của chúng mình", Đại tá Tư Cang kể trong cuốn sách Nước mắt ngày gặp mặt (xuất bản năm 2012).

Sau giây phút đoàn tụ và bữa cơm gia đình, bà Ngọc Ảnh nhìn thẳng mắt ông Tư Cang, trìu mến hỏi: "Đêm nay, anh đã về với em vĩnh viễn rồi phải không?". "Chưa em à. Anh còn là quân nhân. Hôm nay anh ghé nhà thăm em và con một tiếng thôi. Lát nữa, anh phải trở về đơn vị", ông đáp lời.  

Trước khi cùng các chiến sĩ tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ sắp xếp trật tự, tiếp quản thành phố Sài Gòn, ông Tư Cang bế cháu ngoại vào lòng, nhìn đứa bé ngây thơ ngủ mà lòng ông trào lên niềm thương vô hạn. Chiến tranh kết thúc, lớp trẻ liệu sẽ lớn lên trong hòa bình như ông hằng mơ ước hay không?

Vợ đưa công văn mật, đau lòng đứng từ xa xem như người xa lạ

Quay ngược thời gian trở về đầu thập niên 1940, cậu học sinh Tư Cang lặn lội từ Bà Rịa - Vũng Tàu lên Sài Gòn dự thi vào trường cấp 3 Petrus Ký (nay là trường THPT chuyên Lê Hồng Phong), thuộc nhóm điểm cao nhất trường. Thế rồi, chiến tranh nổ ra, sự học của ông Tư Cang dở dang. 

Năm 1945, ông về quê nhà ở Long Phước (Bà Rịa - Vũng Tàu), cầm cành tầm vông vát nhọn, tham gia phong trào Thanh niên tiền phong, đấu tranh giành chính quyền cách mạng. Năm 1946, ông cưới bà Ngọc Ảnh cùng quê, kém ông 1 tuổi. Chồng chưa đủ 18 tuổi, vợ chưa tròn 17, cả hai vợ chồng đều ở tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới". 

Khi vợ mang bầu vài tháng, chàng thanh niên Tư Cang thoát ly theo Việt Minh làm cách mạng. Đêm chia tay trước ngày đi chiến đấu, hai vợ chồng dắt nhau bờ kênh tâm sự. Mái tóc óng mượt của bạn đời êm ả trong tay người chiến sĩ trẻ. Ông bùi ngùi dặn dò: "Anh đi, em về với ba má ở Phước Hải rồi tìm cách lên Sài Gòn, làm ăn, sinh nở, nuôi con đợi anh đánh giặc trở về"...

Khi đó, đôi vợ chồng trẻ đều không hề biết rằng, cuộc chiến kéo dài đằng đẵng 3 thập kỷ. Ngày trở về, là khoảng cách 28 năm.

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 5

Đại tá Tư Cang biết ơn sự hy sinh của vợ, người đã đợi ông suốt 28 năm qua 2 cuộc kháng chiến (Ảnh: Bích Phương).

Trò chuyện với phóng viên Dân trí, ông Tư Cang kể, những năm ở chiến khu miền Bắc, ông đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần bức thư vợ gửi, nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy. Những kỷ vật như chiếc khăn vợ tặng, ảnh chụp con gái, ông gìn giữ như vật quý giá. Tiếc rằng, chiến tranh, bom đạn, mọi thứ sau này đều thất lạc.

"Chiến tranh mà, tôi mang thân mình chạy dưới địa đạo còn bom đạn tàn phá hết thư từ, kỷ vật của vợ con. Tôi thấy thương con Nhồng, lớn lên không có hơi ấm của cha, thấy có lỗi vì không mua được quà gì gửi về cho con", Đại tá Tư Cang nhớ lại quãng thời gian xa cách gia đình.

"Kỷ luật hay là chết, đó là lý do ông nén nỗi nhớ thương vợ con để hoạt động tình báo bí mật?", người viết đặt câu hỏi.

Đại tá đáp: "Số phận đã chọn rồi. Nguyên tắc cao nhất của tình báo là ngăn cách, bí mật. Những năm ở nội đô Sài Gòn, tôi chỉ cách vài ki-lô-mét nơi vợ con sinh sống, nhớ thương lúc nào cũng thường trực, nhưng không một lần rẽ về nhà. Thậm chí, đồng đội của tôi không ai biết tôi đã lập gia đình, kể cả cô Tám Thảo (điệp viên cụm H.63 - PV)".

Nếu không chia cắt triệt để, vợ con ông Tư Cang khó có thể an toàn xuyên suốt chiến tranh. Bởi, người chiến sĩ quê Bà Rịa - Vũng Tàu vốn là "con cá bự" được địch ráo riết truy lùng danh tính, treo thưởng lớn cho ai cung cấp manh mối. 

Suốt những năm ông Tư Cang làm Cụm trưởng Cụm tình báo chiến lược H.63, bà Ngọc Ảnh như cái bóng, âm thầm hỗ trợ chồng hoàn thành nhiệm vụ dù chưa một được gọi tên chồng một cách thân thương. Tưởng gần nhau, nhưng lại xa cách nghìn trùng.

Vị Đại tá kể, thi thoảng ông vào nội đô Sài Gòn hoạt động, sống dưới vỏ bọc gia sư ngoại ngữ, trú ẩn tại nhà điệp viên Tám Thảo. Thi thoảng, có công văn đột xuất cần giao cho Tư Cang, người giao thông viên sẽ đến đưa cho bà Ảnh, rồi bà Ảnh lại chạy đến nhà bà Tám Thảo. 

Điệp viên Tám Thảo không biết đó là vợ Tư Cang, nói rằng: "Anh Tư, có bà "tóc búi" đến tìm anh". Ngồi phía trong phòng khách nhìn ra cổng nơi vợ đang đứng, ông nén tình thương vợ, nói tỉnh bơ như nhắc về người xa lạ: "Ừ, em ra lấy thư vào cho anh", sau đó lại nhìn bạn đời lủi thủi quay lưng đi về.

Lần khác, Tư Cang và Tám Thảo vào vai đôi tình nhân đi xem phim. Từ xa, bà Ngọc Ảnh đang đi cùng nhóm bạn, cặp mắt buồn bã dõi theo bóng hình chồng bên mỹ nhân khác. "Mãi đến sau này, vợ mới kể cho tôi lần đó. Thấy tôi đi với Tám Thảo, vợ liền nói với bạn rằng bà đau đầu, không muốn xem phim nữa. Phải thương tôi lắm, bà ấy mới chấp nhận cuộc sống gần trong gang tấc mà vẫn xa cách như vậy", Đại tá nhìn xa xăm, kể lại.

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 6

Bức ảnh kỷ niệm của Đại tá Tư Cang năm 1957 (Ảnh: Trịnh Nguyễn).

Những bữa cơm đoàn viên, nỗi nhớ bạn đời quá cố

Tháng 4 năm 1975, hòa bình lập lại, trước một số thay đổi của tình hình mới, Lữ đoàn 316 sắp xếp biên chế, thu gọn thành Trung đoàn. Ông Tư Cang lại tạm biệt vợ con, cùng đơn vị đóng quân ở biên giới Bình Long (Bình Phước ngày nay).

Đại tá Tư Cang kể, đầu năm 1976, ông hạnh phúc vô vàn khi lần đầu được đón Tết cùng gia đình, quây quần ăn bữa cơm giao thừa có thịt kho tàu, bánh tét, củ kiệu muối. Từ khi nghỉ hưu năm 1980, ông có thời gian ở nhà nhiều hơn, bù đắp cho vợ những thiệt thòi, vui thú điền viên, hai vợ chồng đi đâu cũng có nhau. 

Biệt tích 28 năm Đại tá tình báo Tư Cang bất ngờ về nhà đúng ngày 30/4/1975 - 7

Ông Tư Cang và vợ chụp ảnh tại Bến Nhà Rồng sau ngày 30/4/1975 (Ảnh: Nhân vật cung cấp).

"Lúc đoàn tụ năm 1975, tôi đã 47 tuổi còn vợ 46 tuổi. Tôi bị thương do chiến tranh, còn vợ lăn lộn kiếm tiền nuôi con nên sức khỏe cũng yếu đi nhiều. Chúng tôi không có thêm con. 

Nhiều đêm, ký ức ám ảnh, tôi lại mơ ác mộng. Có lần nửa đêm vợ ôm mặt hét lớn, tôi bừng tỉnh. Hóa ra, trong mơ, tôi ngỡ mình đang ngồi ở Thảo Cầm Viên thời hoạt động tình báo cùng Phạm Xuân Ẩn. Tôi mơ kẻ thù tới từ phía sau bóp cổ, quay sang đánh mạnh với ngón nghề của con nhà võ, vô tình làm vợ bị thương, gãy mấy cái răng. Từ đó, không dám ngủ chung cùng vợ nữa", ông kể.

Năm năm qua, từ khi vợ khuất núi, Đại tá Tư Cang luôn khắc sâu hình ảnh người vợ tảo tần lúi húi nấu ăn trong bếp, sáng sáng pha trà cho ông đọc sách báo bên hiên nhà rợp bóng cây. Có lúc, trong cuộc trò chuyện, ông chỉ tay về hướng bàn thờ bà Ngọc Ảnh. Ông vẫn đều đặn thắp hương, mời người vợ quá cố từng chiếc bánh, từng quả dưa, quả xoài, như thời gia đình đủ đầy…

"Hy sinh tình yêu đôi lứa để cống hiến cho cách mạng, ông thấy cuộc đời mình có trọn vẹn?", người viết đặt câu hỏi sau khi lắng nghe những kỷ niệm tình yêu thời chiến ly kỳ, xúc động.

"Tôi là thương binh hạng 2/4, bác sĩ nói mất 61% sức lao động nhưng tôi không hề tiếc nuối. Tôi đã góp công cho Nhà nước, đi đâu cũng được người ta thương. Nhờ công sức đóng góp chuyển thư từ mật cho cụm tình báo, vợ tôi sau này cũng được Nhà nước phong Thượng sĩ, nhận vài chiếc huy chương.

Ngẫm lại cuộc đời, tôi tự hào mình là người cầm tầm vông đấu tranh giành chính quyền tháng 8/1945, trải qua 2 cuộc kháng chiến, vẫn còn sống đến hôm nay. Ngày kết thúc chiến tranh, tôi tự hào đi trên chiếc xe của địch, tiến vào sào huyệt cuối của quân thù, tìm gặp người vợ bao ngày mong ngóng. Tuổi già, tôi sống trong yên bình, đất nước càng ngày càng phát triển. Không có gì hạnh phúc hơn", Đại tá Tư Cang chia sẻ.

Đại tá Tư Cang sinh năm 1928, tên thật Nguyễn Văn Tàu, quê ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông làm chiến sĩ quân báo của Việt Minh tại Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 1947 đến năm 1954.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, đổi tên là Trần Văn Quang và làm Trung đội trưởng trinh sát kiêm chính trị viên đại đội đặc công, Sư đoàn 338.

Năm 1961, ông quay lại hoạt động tại chiến trường miền Nam. Từ năm 1962 đến năm 1972, ông làm Cụm trưởng Cụm tình báo H.63.

Sau ngày ký Hiệp định Paris, cuối năm 1973, ông được cử ra Hà Nội học khóa bổ túc Chính ủy sư đoàn ở Học viện Chính trị. Tháng 4/1975, ông được giao trở lại chiến trường miền Nam, nhận nhiệm vụ Chính ủy cánh Bắc Lữ đoàn 316. Đây là đơn vị có trận đánh lịch sử bảo vệ cầu Rạch Chiếc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Ông Tư Cang về hưu năm 1980, được xếp thương binh hạng 2/4. Ông được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân năm 2006.

Bà Ngọc Ảnh vợ ông Tư Cang vì tuổi cao sức yếu đã qua đời năm 2020. Hiện ông sống cùng con gái, cháu ngoại và chắt tại quận Bình Thạnh, TPHCM.