DNews

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử đang trao cho Việt Nam “làn gió lớn”

Võ Văn Thành

(Dân trí) - "Với dân số trẻ, vị trí địa chính trị trung tâm và khát vọng vươn mình mạnh mẽ, Việt Nam không thể là một quốc gia nhỏ bé", TS Nguyễn Sĩ Dũng nói.

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử đang trao cho Việt Nam “làn gió lớn”

TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, được biết đến là chuyên gia về các vấn đề khoa học chính trị; thành viên Nhóm tư vấn của Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016. Báo Dân trí có cuộc trò chuyện với ông nhân dịp Quốc khánh 2/9.

Những phép thử bản lĩnh Việt Nam

Thưa ông, lâu nay trong tâm thức của nhiều người Việt trăn trở với câu hỏi “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?”. Ông chia sẻ như thế nào về câu hỏi này?

- Câu hỏi “Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” thực ra chạm đến niềm tự hào cũng như nỗi day dứt của dân tộc chúng ta. Nếu chỉ nhìn về diện tích lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 65 trên thế giới với hơn 331.000km² - rộng gấp 500 lần Singapore (chỉ khoảng 733km²). Nếu so về dân số, Việt Nam có hơn 100 triệu người, gấp hơn 16 lần Singapore (khoảng 6,1 triệu). Rõ ràng, xét về tầm vóc tự nhiên, chúng ta hoàn toàn không nhỏ.

Điều làm chúng ta trăn trở với chữ “nhỏ” chính là sức mạnh quốc gia chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng. Trong khi Singapore, chỉ với một hòn đảo bé nhỏ, lại vươn lên trở thành một trung tâm tài chính, hàng hải, logistics hàng đầu thế giới. Điều đó cho thấy “lớn” hay “nhỏ” không chỉ nằm ở diện tích hay dân số, mà trước hết là ở tầm nhìn, thể chế và năng lực quản trị quốc gia.

80 năm trước, khi tuyên bố độc lập, Bác Hồ đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập”. Hôm nay, sau 80 năm, câu hỏi “nước ta nhỏ hay không nhỏ” nên được đặt lại theo một cách khác: Chúng ta có đủ khát vọng, trí tuệ và thể chế để biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để Việt Nam vươn lên hàng cường quốc khu vực và góp tiếng nói quan trọng vào trật tự thế giới hay không?

Với dân số trẻ, vị trí địa chính trị trung tâm và khát vọng vươn mình mạnh mẽ, Việt Nam không thể là một quốc gia nhỏ bé. Vấn đề chỉ là chúng ta có dám nghĩ lớn, hành động lớn và quyết liệt kiến tạo thể chế để biến khát vọng thành hiện thực hay không.

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử đang trao cho Việt Nam “làn gió lớn” - 1

Cầu Nhật Tân dẫn vào trung tâm TP Hà Nội (Ảnh: Lê Hoàng Vũ)

Trên thế giới, vị thế của một quốc gia được xác định bởi nhiều yếu tố như sức mạnh kinh tế, quân sự, sự phát triển khoa học công nghệ, dân số, ảnh hưởng chính trị, vị thế địa chính trị, và "sức mạnh mềm" như văn hóa, giáo dục... Với Việt Nam, theo ông, đâu là những yếu tố quan trọng nhất để chúng ta định vị mình và xác định là lợi thế cạnh tranh quốc gia?

- Mỗi quốc gia đều có “căn cước quyền lực” riêng để định vị trên bản đồ thế giới. Với Việt Nam, có ít nhất bốn yếu tố then chốt sẽ quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia trong thế kỷ XXI.

Thứ nhất, vị trí địa chính trị - địa kinh tế độc đáo. Nằm ở trung tâm Đông Nam Á, trên trục giao thương hàng hải huyết mạch kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Việt Nam luôn là điểm hội tụ lợi ích của các cường quốc. Nếu biết khai thác khôn ngoan, vị trí này có thể trở thành “đòn bẩy chiến lược” để chúng ta vừa bảo đảm an ninh, vừa mở ra cơ hội phát triển.

Thứ hai, nguồn lực con người. Với hơn 100 triệu dân, lực lượng lao động trẻ, năng động và giàu khát vọng chính là “vàng mười” của quốc gia. Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và kinh tế tri thức, con người - đặc biệt là nhân lực chất lượng cao - sẽ là lợi thế cạnh tranh cốt lõi.

Thứ ba, thể chế kiến tạo phát triển. Một thể chế minh bạch, hiệu quả, khơi thông mọi nguồn lực, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo sẽ biến tiềm năng thành sức mạnh. Nếu không cải cách thể chế, mọi lợi thế khác sẽ bị lãng phí.

Thứ tư, sức mạnh mềm văn hóa. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cùng bản sắc văn hóa độc đáo, có thể giúp Việt Nam tạo dựng uy tín và sức hấp dẫn toàn cầu. Văn hóa, giáo dục và ngoại giao nhân dân chính là “ngôn ngữ quyền lực” để Việt Nam đi xa hơn trong hội nhập.

Khi bốn yếu tố này hòa quyện - vị trí chiến lược, con người, thể chế và văn hóa - thì Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế của một quốc gia có trách nhiệm, mà còn có thể biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh, biến khát vọng hùng cường thành hiện thực.

Ông vừa đề cập đến những yếu tố có thể là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Vậy, bên cạnh thuận lợi, đâu là những yếu tố cả bên trong và bên ngoài có thể tác động không thuận đến sự phát triển của Việt Nam hiện nay cũng như giai đoạn tới?

- Mỗi quốc gia trên hành trình phát triển đều đối diện cả thuận lợi lẫn thách thức. Với Việt Nam, có thể nhận diện rõ hai nhóm yếu tố: bên trong và bên ngoài.

Về bên trong, thách thức lớn nhất chính là nội lực chưa phát huy trọn vẹn. Thể chế kinh tế còn nhiều điểm nghẽn, thủ tục hành chính phức tạp, môi trường kinh doanh chưa thật sự minh bạch, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, năng lực khoa học - công nghệ còn hạn chế cũng có thể kìm hãm tốc độ phát triển.

Về bên ngoài, thế giới hiện nay đang trong một giai đoạn đầy biến động. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, làm phức tạp môi trường an ninh - chính trị. Biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, an ninh lương thực cũng đang đặt ra những thách thức toàn cầu, mà Việt Nam - một quốc gia ven biển, nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp - chịu tác động trực tiếp và sâu sắc. Ngoài ra, xu thế bảo hộ thương mại và các rào cản mới như thuế carbon, tiêu chuẩn xanh… cũng có thể trở thành rào cản nếu ta không kịp thích ứng.

Nhưng nhìn ở một góc độ khác, chính những thách thức này cũng là phép thử bản lĩnh dân tộc. Nếu chúng ta quyết liệt cải cách thể chế, đầu tư cho con người, phát triển khoa học công nghệ, và chủ động hội nhập thông minh, thì mọi “nguy cơ” đều có thể được chuyển hóa thành “cơ hội”. Lịch sử 80 năm qua cho thấy: càng trong khó khăn, Việt Nam càng biết cách đứng lên mạnh mẽ.

Người Việt đang có khát vọng vươn lên mạnh mẽ

Ông nhìn nhận như thế nào về những cơ hội chiến lược của Việt Nam để tạo sự phát triển đột phá trong bối cảnh thế giới đang định hình trật tự mới hiện nay?

- Trong những biến động của thế giới hôm nay, trật tự mới đang hình thành với cả rủi ro và cơ hội đan xen. Với Việt Nam, nếu biết chọn đúng hướng đi, đây chính là thời khắc vàng để bứt phá.

Trước hết, dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu mở ra cơ hội hiếm có. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đang tìm bến đỗ an toàn, đa dạng hóa chuỗi sản xuất. Việt Nam, với vị trí địa chiến lược, ổn định chính trị và hội nhập sâu rộng, hoàn toàn có thể trở thành trung tâm sản xuất - dịch vụ mới của khu vực.

Thứ hai, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đang là xu thế toàn cầu. Nếu chúng ta đi trước một bước, biến thách thức thành cơ hội, thì Việt Nam có thể vừa giải quyết bài toán phát triển bền vững, vừa tạo lợi thế cạnh tranh mới. Đầu tư vào năng lượng tái tạo, hạ tầng số, trí tuệ nhân tạo, và kinh tế tuần hoàn sẽ mở ra không gian tăng trưởng đột phá.

Thứ ba, vị thế địa chính trị - địa kinh tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Là thành viên năng động của ASEAN, đối tác chiến lược toàn diện của nhiều cường quốc, Việt Nam có thể đóng vai trò “cầu nối tin cậy”, vừa giữ được cân bằng, vừa tranh thủ được nguồn lực quốc tế để phát triển.

Cuối cùng, khát vọng dân tộc sau 80 năm độc lập là một nguồn lực vô hình nhưng vô cùng mạnh mẽ. Khi quốc gia có khát vọng vươn lên, có thể chế khơi thông tiềm năng, và có những thế hệ dám dấn thân cho đổi mới, thì cơ hội chiến lược sẽ biến thành bước nhảy vọt phát triển.

Nói một cách hình ảnh: Lịch sử đang trao cho Việt Nam một “làn gió lớn”. Nếu biết căng buồm đúng hướng, chúng ta hoàn toàn có thể bứt phá, không chỉ đi cùng thời đại, mà còn góp phần định hình thời đại.

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử đang trao cho Việt Nam “làn gió lớn” - 2

TPHCM về đêm (Ảnh: Nam Anh)

Việt Nam đã xác định “bộ tứ chiến lược” gồm: Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia; Hội nhập quốc tế; Xây dựng và thực thi pháp luật; Phát triển kinh tế tư nhân. Ở góc độ là một chuyên gia về các vấn đề khoa học chính trị, theo ông, cần làm gì để triển khai hiệu quả “bộ tứ chiến lược” này?

- “Bộ tứ chiến lược” giống như bốn động cơ của một chiếc máy bay phát triển. Muốn cất cánh mạnh mẽ, các động cơ phải đồng nhịp, có nhiên liệu dồi dào và buồng lái điều phối chính xác.

Điều đầu tiên cần làm là thiết lập một cơ chế điều phối cấp cao. Các chương trình khoa học - công nghệ, hội nhập, cải cách pháp luật và phát triển khu vực tư nhân phải được dẫn dắt thống nhất, có “bảng điều khiển” công khai để người dân và doanh nghiệp giám sát. Song song với đó, mọi chính sách phải dựa trên bằng chứng và có cơ chế tự loại bỏ những quy định lỗi thời.

Ngân sách nhà nước cũng cần được sử dụng như một đòn bẩy đổi mới, thông qua đặt hàng nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích công nghệ Chính phủ (GovTech), khung thể chế thí điểm (sandbox) cho các lĩnh vực mới và cơ chế thử nghiệm ở những địa phương tiên phong. Trên hết, chúng ta phải đầu tư cho con người: đào tạo nhân lực số, nhân lực khoa học công nghệ và thu hút tài năng quốc tế.

Cụ thể hơn, với khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trọng tâm là hoàn thiện hạ tầng dữ liệu quốc gia, thúc đẩy đầu tư cho công nghệ sâu, triển khai GovTech thực chất và khuyến khích mua sắm công nghệ thử nghiệm.

Với hội nhập quốc tế, cần nâng cấp các FTA theo tiêu chuẩn xanh - số, thu hút trung tâm R&D của các tập đoàn toàn cầu và số hóa mạnh mẽ hải quan, logistics.

Với xây dựng và thực thi pháp luật, ưu tiên chuyển từ làm luật nhiều sang thi hành tốt, pháp điển hóa, cắt giảm điều kiện kinh doanh, minh bạch xung đột lợi ích và tăng cường cơ chế tài phán bảo vệ quyền tài sản.

Với phát triển kinh tế tư nhân, phải bảo đảm cạnh tranh công bằng, mở rộng kênh vốn dài hạn, khuyến khích hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi giá trị và đơn giản hóa thủ tục phá sản - tái cấu trúc để giải phóng nguồn lực.

Nếu bốn động cơ này cùng được vận hành hài hòa, với nhiên liệu là thể chế minh bạch và buồng lái là cơ chế điều phối hiệu quả, Việt Nam hoàn toàn có thể bứt phá. Khi đó, “bộ tứ chiến lược” sẽ thực sự trở thành sức mạnh đưa đất nước vươn mình, biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh quốc gia.

Hình dung của ông về nước Việt Nam năm 2045?

- Năm 2045 sẽ là cột mốc đặc biệt: tròn 100 năm thành lập nước. Hình dung về Việt Nam khi ấy, tôi mong và tin đó sẽ là một đất nước hùng cường, thịnh vượng, văn minh và hạnh phúc.

Trước hết, một nền kinh tế mạnh: Việt Nam sẽ vươn vào nhóm nước có thu nhập cao, trở thành trung tâm sản xuất, dịch vụ và đổi mới sáng tạo của châu Á. Những ngành công nghệ cao, năng lượng sạch, trí tuệ nhân tạo, sinh học và tài chính xanh sẽ là động lực phát triển chủ lực.

Thứ hai, một xã hội công bằng và hạnh phúc: mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng, dịch vụ y tế hiện đại, môi trường sống trong lành. Khoảng cách giàu nghèo thu hẹp đáng kể và chỉ số hạnh phúc quốc gia trở thành một chuẩn mực quan trọng bên cạnh GDP.

Thứ ba, một thể chế hiện đại và minh bạch: nhà nước pháp quyền vững chắc, bộ máy gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả. Quyền con người, quyền công dân được bảo đảm; doanh nghiệp tự do sáng tạo trong một môi trường cạnh tranh công bằng.

Thứ tư, một đất nước có uy tín quốc tế cao: Việt Nam là thành viên có trách nhiệm, có tiếng nói quan trọng trong việc định hình trật tự khu vực và thế giới. Văn hóa Việt Nam lan tỏa như một nguồn sức mạnh mềm, góp phần tạo dựng hình ảnh đất nước đáng tin cậy, thân thiện và sáng tạo.

Hình ảnh Việt Nam năm 2045, trong tôi, là hình ảnh một con rồng mới của châu Á - bay lên nhờ sức mạnh nội sinh với thể chế kiến tạo phát triển, khoa học - công nghệ tiên phong và nguồn lực con người tràn đầy khát vọng.

Trân trọng cảm ơn ông!