(Dân trí) - Theo bác sĩ Trần Văn Phúc, để giảm tải cho các bệnh viện tuyến trung ương thì đào tạo nội trú diện rộng, bắt buộc với 100% bác sĩ hành nghề và rút ngắn thời gian là hướng đi khả thi.
Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đề ra một trong các quan điểm chỉ đạo: “Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng, cân đối, đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và sự hài lòng của người dân”.
Nhân dịp này, báo Dân trí có cuộc trò chuyện với bác sĩ Trần Văn Phúc - một trong 10 bác sĩ trẻ tiêu biểu của Việt Nam năm 2014 và hiện công tác tại Bệnh viện Saint Paul, Hà Nội.
Bác sĩ Trần Văn Phúc trải lòng về nghề thầy thuốc (Video: Phạm Tiến)

Mọi người đến với nghề nghiệp của mình thường có một lý do nào đó. Với anh, vì sao anh chọn nghề bác sĩ?
- Tôi sinh ra ở một làng quê ngoại thành Hà Nội, chỉ có hơn một nghìn dân. Đó là ngôi làng nghèo nhất của huyện thuộc nhóm nghèo nhất ngoại thành Hà Nội. Và gia đình tôi là một gia đình rất nghèo trong làng đó.
Bố tôi sinh năm 1920, khi có tôi thì bố đã nhiều tuổi. Mẹ tôi là một người bị tàn tật từ nhỏ. Gia đình tôi vì thế không có ruộng và đời sống rất khó khăn. Những năm tháng tuổi thơ, tôi trải qua nhiều trận ốm thập tử nhất sinh. Chính điều này đã hun đúc trong tôi khao khát lớn lên trở thành bác sĩ, trước hết là chữa bệnh cho chính bản thân mình.
Cũng như gia đình tôi, đa số người dân trong làng không đủ điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ y tế. Thời ấy, hàng xóm của chúng tôi có một bà y tá già, và cả làng coi đó là một sự may mắn vì nhờ bà mà mọi người được hỗ trợ chữa trị các bệnh thông thường một cách khoa học nhất. Trong mắt tôi hồi nhỏ, cái khăn voan trắng của người y tá, bơm kim tiêm, tiêm chủng, những viên thuốc trong lọ thủy tinh… đều là những thứ vô cùng xa xỉ. Vườn thuốc nam ở trạm y tế xã là cả một thế giới mới để tôi khám phá. Khi được cô giáo hỏi “lớn lên em mơ ước làm công việc gì?”. Tôi đã trả lời cô giáo rằng “em ước mơ lớn lên sẽ trở thành bác sĩ”.
Sau này, càng nhiều tuổi tôi càng thấy được giá trị sức khỏe của con người. Một khi có sức khỏe thì chúng ta sẽ có tất cả. Tôi vẫn nghĩ, sức khỏe là số 1, còn tất cả những vấn đề khác của cuộc sống là số 0 đi theo số 1 đó. Nếu đặt số 0 đứng trước số 1 thì số 1 trở nên rất nhỏ bé; nhưng nếu ta đặt số 1 đứng trước, sau nó là những số 0 thì chúng ta sẽ được những con số rất lớn và có ý nghĩa. Vì vậy, ở góc độ nào đó, với tôi, bác sĩ là một nghề đặc biệt, đặc biệt hơn so với những nghề khác.

Khi quyết định bước vào nghề bác sĩ, anh lựa chọn chuyên khoa như thế nào?
- Tôi bước chân vào trường Đại học Y Hà Nội ở giai đoạn giao thời, kết thúc bao cấp và bước đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Giai đoạn trước, hình ảnh những người bác sĩ rất trong sáng. Nhưng đến thời kỳ chuyển đổi, mọi người bắt đầu nghĩ đến kinh tế, cuộc sống cá nhân, và câu chuyện “phong bì” len lỏi vào lĩnh vực y tế.
Chúng tôi khi theo đuổi ngành y, trước tiên sẽ phải trải qua 4 năm học đa khoa, sau đó là chọn chuyên khoa. Thời ấy, các chuyên khoa phổ biến – được nhiều sinh viên lựa chọn - là Nhi, Đông y, Răng Hàm Mặt, Vệ sinh dịch tễ…
Nhiều sinh viên nghĩ nếu theo chuyên khoa Răng Hàm Mặt thì học nhàn hơn, ra trường kiếm được nhiều tiền hơn và an toàn hơn. Còn chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ lúc ấy rất mới, có nhiều dự án nước ngoài đầu tư, giúp những người theo chuyên ngành đó vừa tiếp cận được với cái mới của xã hội bên ngoài, vừa có cơ hội cải thiện thu nhập.
Việc lựa chọn chuyên khoa khiến chúng tôi phải suy nghĩ, trăn trở rất nhiều, cần bản lĩnh để theo đuổi lý tưởng bản thân. Bạn bè, người thân, gia đình gây áp lực. Xu hướng là mọi người đều khuyên vào những chuyên ngành “nhàn” hơn và kiếm tiền dễ hơn.
Nhưng bản thân tôi vốn đã trải qua cuộc sống quá khó khăn thuở ấu thơ, lao động kiếm sống từ nhỏ. Nhờ vậy, tôi nhận thấy mình có một bàn tay khéo léo, có thể cầm dao để bổ củi, có thể cày cuốc, có thể làm thợ xây, có thể đóng than tổ ong… Tôi nghĩ rằng với bàn tay khéo léo của mình, tôi đủ khả năng trở thành một nhà ngoại khoa tốt, nên quyết định theo đuổi điều này. Khi ra trường, tôi trở thành bác sĩ ngoại khoa về tiêu hóa, sau đó chuyển sang ngoại khoa về tiết niệu.

Trong quá trình hành nghề y, tôi nhận ra rằng, bên cạnh năng lực của người bác sĩ thì ngày nay trang thiết bị hiện đại hỗ trợ rất tốt cho việc nhìn sâu vào cơ thể người bệnh, bắt những thứ thầm lặng phải “cất lên tiếng nói” phục vụ cho việc điều trị.
Trước đây, chúng tôi khám, chữa bệnh bằng đôi bàn tay, bằng ống nghe, bằng trí tuệ, đưa ra chẩn đoán thông qua các triệu chứng đã biểu hiện bằng lâm sàng, nhưng khi bệnh vào giai đoạn triệu chứng lâm sàng rồi thì thường đã rất muộn. Nếu có những trang thiết bị hiện đại, từ máy X-quang, máy siêu âm đến máy CT, máy cộng hưởng từ…, chúng tôi có thể nhìn được những tổn thương nhỏ nhất bên trong cơ thể của người bệnh, tức là nhìn thấu suốt cơ thể bệnh nhân ở giai đoạn chưa biểu hiện thành triệu chứng ra bên ngoài. Việc phát hiện bệnh ở giai đoạn tiềm ẩn là bước ngăn chặn cực kỳ quan trọng.
Người bác sĩ nếu chỉ chẩn đoán để điều trị bệnh ở giai đoạn cuối thì có thể đưa đến sự thay đổi ngoạn mục nào đó ở một số trường hợp bệnh nhân cụ thể, nhưng không cứu giúp được xã hội ở quy mô rộng lớn hơn. Bởi vì lúc này y tế chỉ có thể tập trung vào chữa bệnh. Bởi vậy, tôi muốn đi xa hơn, chuyển sang lĩnh vực bác sĩ chẩn đoán hình ảnh. Tôi cho rằng, sức mạnh của hệ thống y tế phải được thể hiện ở công tác phòng, chống bệnh tật ngay từ khi chưa biểu hiện thành triệu chứng.

Vừa rồi mọi người rất quan tâm đến chương trình chọn bác sĩ nội trú của Đại học Y Hà Nội. Thống kê cho thấy những năm gần đây, các “chuyên ngành hot” như Sản phụ khoa, Phẫu thuật tạo hình… có sức hút lớn. Việc nhiều bạn lựa chọn các chuyên ngành có thể thuận lợi về công việc, thu nhập sau này là một sự tất nhiên, chính đáng. Nhưng ở tầm vĩ mô, Nhà nước muốn điều tiết người giỏi học các chuyên ngành là trụ cột của ngành Y thì phải có chính sách ưu đãi, khuyến khích. Anh nghĩ sao về vấn đề này?
- Tôi mong mỏi nền y tế của chúng ta sẽ có sự phát triển nhân lực mang tính toàn diện. Các quốc gia phát triển trên thế giới đào tạo và bố trí nguồn nhân lực y tế theo hướng hài hòa. Lĩnh vực nào, chuyên khoa nào cũng giữ vai trò quan trọng, không có hơn – kém ở đây.
Theo quan điểm của tôi, chuyên gia (bác sĩ giỏi) phải tản đi khắp mọi nơi. Chẳng hạn, một bệnh viện tập trung mũi nhọn vào chuyên khoa tiêu hóa thì nơi đó sẽ có nhiều chuyên gia tiêu hóa, nhưng không có nghĩa là bệnh viện nơi khác thiếu vắng chuyên gia, mà sẽ có những chuyên gia phù hợp với đặc điểm dân số, đặc điểm bệnh ở địa phương, khu vực đó.
Từ cách tiếp cận này, đào tạo nội trú sẽ phải mang tính chất toàn diện hơn thay vì tập trung vào một nhóm đối tượng bác sĩ nhất định.

Nhiều nước yêu cầu tất cả bác sĩ tham gia khám, chữa bệnh đều phải trải qua giai đoạn đào tạo bác sĩ nội trú ở bệnh viện. Chẳng hạn, hệ nội khoa thì học nội trú 3 năm, hệ ngoại khoa bác sĩ phải học 5 năm đến 7 năm, hệ chẩn đoán hình ảnh của chúng tôi sẽ phải học đến 7 năm.
Khi tất cả bác sĩ đều học nội trú, chuyên môn của họ sẽ đảm bảo đồng đều. Chúng ta hình dung, bác sĩ học đa khoa là “xóa mù” về kiến thức y khoa, sau đó phải học nội trú để thực sự ứng dụng kiến thức vào khám, chữa bệnh.
Truyền thống của chúng ta là những người rất giỏi sẽ đi học nội trú, được thế hệ cha anh truyền nghề trực tiếp. Thường thì các bạn học nội trú sẽ làm việc ở bệnh viện tuyến trung ương, tuyến trên; số còn lại làm việc ở tuyến dưới. Thực tế này dẫn đến tình trạng phân cấp về trình độ giữa tuyến trên và tuyến dưới, không đồng đều.
Gần đây, Việt Nam đã tăng cường đào tạo bác sĩ nội trú so với trước, nghĩa là đào tạo ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta bê nguyên xi mô hình đào tạo bác sĩ nội trú 100% như các nước thì sẽ khó khăn. Nhiều nước đang phải đối mặt với bài toán khủng hoảng thiếu nhân lực y tế, do thời gian học quá lâu, gánh nặng tài chính quá lớn, nhiều người không dám đầu tư thời gian đi học y khoa tốn kém như vậy. Việt Nam nên chọn lộ trình khác, phù hợp hơn.

Vậy, đâu là lộ trình đào tạo mà y tế Việt Nam nên đi?
- Chúng ta vẫn cần duy trì mô hình đào tạo bác sĩ nội trú trên diện rộng và nên yêu cầu tất cả bác sĩ đều phải học nội trú trước khi hành nghề; thời gian học nội trú được hưởng toàn bộ chế độ lương, phụ cấp như bác sĩ trong biên chế. Như vậy, bệnh viện sẽ có một nửa số bác sĩ là thầy và một nửa bác sĩ là học việc. Học việc ở đây mang tính chất là học nội trú và sau khi tốt nghiệp, họ sẽ tỏa đi các bệnh viện khác ở địa phương.
Nhưng, điều chúng ta nên làm khác với thế giới là rút ngắn thời gian đào tạo nội trú, chẳng hạn như nội trú chẩn đoán hình ảnh thay vì đào tạo đến 7 năm thì chúng ta có thể rút ngắn xuống khoảng 3-4 năm. Vì sao? Vì số lượng bệnh nhân của chúng ta quá nhiều, mặt bệnh (các loại bệnh) của chúng ta quá lớn nên điều kiện, cơ hội để tiếp xúc, trải nghiệm, học tập với các mặt bệnh của bác sĩ nội trú Việt Nam nhìn chung nhiều hơn thế giới. Chúng ta có thể rút ngắn thời gian nội trú mà không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, và qua đó giúp giảm tải áp lực về mặt xã hội.
Nếu chúng ta chỉ tập trung vào một nhóm sinh viên thật giỏi để đào tạo nội trú, thì sẽ tạo ra sự phân cấp rất lớn giữa tuyến trung ương và tuyến địa phương; không phát triển được mạng lưới y tế đồng đều, dẫn tới thực trạng các bệnh viện tuyến dưới luôn vắng bệnh nhân mà bệnh viện tuyến trên thì ùn tắc.
Sự ùn tắc trong bệnh viện đáng sợ hơn nhiều so với ùn tắc giao thông, đặc biệt ở những đô thị lớn như Hà Nội hay TPHCM. Để giảm tải cho các bệnh viện tuyến trung ương thì đào tạo nội trú diện rộng, bắt buộc với 100% bác sĩ hành nghề và rút ngắn thời gian là hướng đi khả thi. Nhà nước cũng nên có cơ chế đặc thù đối với ngành y, từ học phí cho đến các cơ chế đãi ngộ khác để khuyến khích người học.

Nghĩa là để giảm tải cho bệnh viện tuyến trên thì tăng cường đào tạo bác sĩ nội trú diện rộng là một trong những giải pháp khả thi?
- Đúng vậy. Đây là một chìa khóa cực kỳ quan trọng. Xây dựng một bệnh viện khang trang ở địa phương không khó, mua trang thiết bị cũng không hề khó. Điều chúng ta cần là con người, chất lượng con người!
Có thiết bị hiện đại nhưng chúng ta có con người để vận hành thiết bị đó hay không? Có con người để đi sâu vào chẩn đoán hay không? Bác sĩ ở những tuyến dưới có điều kiện để phát huy được hết khả năng của họ hay không? Điều đó mới quan trọng. Nếu tuyến y tế cơ sở có được những bác sĩ giỏi thì chẳng bệnh nhân nào dại gì cất công lên tuyến trên, nhất là nhiều khi lên tuyến trên chỉ để khám chữa các bệnh thông thường.
Chúng ta nên xây dựng một chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam và quyết liệt thực hiện việc đó, thay vì đi theo chủ nghĩa hình thức.


Được biết, ngoài công việc của một bác sĩ thì anh còn có những niềm đam mê khác, như âm nhạc, văn học, viết kịch bản. Các bài viết về y đức của anh đã trở thành kịch bản cho bộ phim “Nỗi đau thầy thuốc” đoạt giải vàng Liên hoan phim truyền hình toàn quốc năm 2014. Trong bộ phim đó có một “bác sĩ Phúc” xuất hiện với tư cách nhân vật chính, chưa bao giờ nhận phong bì. Thế còn bác sĩ Phúc ở ngoài đời thì như thế nào, thưa ông?
- Bộ phim “Nỗi đau người thầy thuốc” dựa trên những bài báo mà tôi đã viết. Ở thời điểm đó đang xảy ra khủng hoảng về y tế rất lớn, được gọi với cái tên “căn bệnh nhận phong bì”.
Bác sĩ cũng là con người, họ cũng mệt mỏi, cũng có cuộc sống, có những khó khăn riêng. Do vậy, như mọi ngành nghề khác, lĩnh vực y tế cũng có “người này, người kia”. Nhưng là một người trong cuộc, tôi khẳng định tuyệt đại đa số bác sĩ là những người tốt, hệ thống y tế rất nỗ lực phục vụ bệnh nhân. Đáng tiếc là đã xảy ra câu chuyện khủng hoảng niềm tin giữa người bệnh với nhân viên y tế, với hệ thống y tế. Có một hố sâu ngăn cách đôi bên, mà vào thời điểm đó, tôi cho rằng rất khó để lấp đầy. Nếu không có những giải pháp ngăn chặn quyết liệt mà để cái hố đó càng bị đào sâu, đào rộng ra thì sẽ gây nên những đổ vỡ không đáng có. Điều này cực kỳ nguy hiểm!
Tôi tự hỏi, vì sao mọi người đều cố gắng làm tốt nhưng người bệnh vẫn không tin, người dân vẫn không tin? Tôi nhận ra, bởi nghề y rất đặc biệt, khi mà mỗi người thầy thuốc đều khoác trên mình một tấm áo choàng trắng, thì chỉ cần có một vết đen thôi, ngay lập tức người khác sẽ nhìn thấy. Cho nên, cả hệ thống y tế có làm tốt đến mấy đi chăng nữa, chỉ cần một vài vụ việc có vấn đề, ngay lập tức xã hội sẽ nhìn vào và coi đó là lỗi của cả hệ thống.

Với bản thân tôi, từ khi bước chân ra khỏi Đại học Y Hà Nội, tôi đã tuyên bố rằng: Không bao giờ nhận phong bì của bệnh nhân. Tôi hưởng chế độ lương của Nhà nước. Điều đó khiến tôi gặp nhiều khó khăn, đối mặt với nhiều áp lực do tôi cũng cần tiền để sống. Tôi phải làm nhiều việc, một trong số đó là tham gia dạy học, đi dạy gia sư, dạy ở các trung tâm ôn thi đại học để phục vụ cho cuộc sống của mình.
Tôi có ba lựa chọn: một là tôi sẽ đi làm thêm ở ngoài phòng khám để tôi kiếm tiền; hai là nhận phong bì bệnh nhân; ba là tôi có thể làm những công việc khác. Mỗi bác sĩ chọn một cách bươn chải khác nhau. Đại đa số bác sĩ chọn cách làm thêm ở các phòng khám ngoài giờ hành chính để kiếm thêm thu nhập.
Trong bộ phim đó thể hiện, có những bác sĩ đi làm từ sáng sớm đến 9-10h đêm, thức dậy lúc vợ con đang ngủ, khi quay trở về thì con cũng đã ngủ say mất rồi. Cuộc sống của họ vô cùng vất vả. Để xóa được hố ngăn cách giữa bệnh nhân và bác sĩ như tôi nêu ở trên cần sự vào cuộc của cả hệ thống với những giải pháp đồng bộ. Ở góc độ cá nhân, tôi góp sức bằng những bài báo để kết nối giữa bệnh nhân và nhân viên y tế, giữa người bệnh với nhau, giữa xã hội với ngành Y.

Báo Dân trí là một trong những báo đầu tiên đi vào mảng Sức khỏe từ đầu thập niên 2000 và thời gian đó, tôi tham gia cùng phóng viên của báo hình thành nên Mục Sức khỏe. Lúc đó tôi rất vui, vì trước đấy chúng ta gần như chưa có khái niệm với những bài báo sức khỏe, những bài báo y tế, trong khi thế giới đã làm từ rất lâu.
Tôi chăm chỉ viết, kể cả trên báo và trên mạng xã hội. Từ đó mới có cơ duyên để sau này Đài truyền hình Việt Nam thực hiện bộ phim “Nỗi đau thầy thuốc” dựa trên các bài viết của tôi.
Nhà báo hỏi tôi “bác sĩ Phúc trong phim và bác sĩ Phúc ngoài đời có khác nhau không”. Tôi khẳng định luôn, nguyên tắc của phim tài liệu là phải dựa trên người thật - việc thật. Những câu chuyện trong bộ phim này đã được phía nhà đài khảo sát rất kỹ. Họ đến gặp từng người cụ thể để chứng tỏ rằng, bác sĩ Phúc đã trải qua những năm tháng, những công việc làm như vậy.
Thời điểm đó, tôi có tìm đến một số đồng nghiệp y đức sáng ngời, chuyên môn rất cao. Ban đầu thì các anh nhận lời, nhưng sau đó các anh lại “ngại”, mà đúng hơn là “sợ”. Các anh sợ bị xã hội tấn công, bị cho rằng đang cố gắng tự tô hồng bản thân, tự nói tốt về mình. Bản thân tôi cũng rất ngại khi phải lấy câu chuyện cuộc đời mình để minh họa cho một bộ phim, nhưng ở thời điểm đó không có cách nào khác, phải thông qua hình ảnh bản thân mình trong phim để chuyển tải thông điệp.
Nói không với phong bì trong suốt mấy chục năm từ khi ra trường cho đến tận hôm nay, vậy có lúc nào anh so sánh và có thể thấy ai đó có cuộc sống tốt hơn mình?
- Giá trị cuộc sống chúng ta không thể chỉ định lượng bằng tiền bạc, và đặc biệt trong ngành y thì điều này lại càng đúng hơn bao giờ hết. Giá trị của người thầy thuốc chính là được đồng nghiệp tôn trọng, được bệnh nhân tin tưởng, được xã hội ghi nhận và khiến bản thân hài lòng.
Khi tôi không nhận phong bì, không tìm những cách kiếm tiền khác từ nghề y thì ít nhiều điều đó khiến tôi gặp một số khó khăn nhất định. Bởi tôi cũng như bao người khác, cũng có những nhu cầu trong cuộc sống. Mà cuộc sống muốn được hạnh phúc thì chúng ta phải đáp ứng được nhu cầu bản thân. Để giải quyết vấn đề, chúng ta có hai cách: Một là hạ nhu cầu xuống; hai là lao đi tìm mọi cách để phục vụ được nhu cầu đó. Cho nên, tôi chọn cái cách đầu tiên, đó chính là giảm nhu cầu của mình xuống.
Tôi luôn quan niệm rằng, sức khỏe là tổng hợp của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ là không bệnh tật. Ở đây có yếu tố về mặt thể chất, tinh thần, có yếu tố về mặt văn hóa, nghệ thuật, xã hội và có cả yếu tố về mặt tư duy. Vì vậy, giá trị sống cũng được thể hiện ở những mặt đó. Tôi không lao vào công cuộc kiếm tiền, không nhận phong bì thì tôi có nhiều thời gian hơn để tiếp thu kiến thức, để hoàn thiện bản thân ở những lĩnh vực khác. Quan trọng là tôi tự cảm thấy mình rất giàu chứ không hề nghèo.
Khi ta có kiến thức, có sức khỏe, hiểu biết được nhiều vấn đề khác trong cuộc sống thì việc kiếm tiền lại không hề khó khăn nữa. Khi đó, chúng ta lại nghĩ ra được nhiều việc, nhiều dự án và có thêm thu nhập. Chúng tôi có thể kiếm tiền một cách chính đáng, đàng hoàng và vẫn giúp ích được nhiều cho xã hội.
Vì sao tôi dám khẳng định với anh “tôi không phải là một người nghèo?”. Tôi có trí tuệ thì không có lý do gì tôi không có tiền cả! Và ngoài giá trị của đồng tiền ra thì tôi còn những giá trị khác nữa. Đó là tôi biết về âm nhạc, tôi biết cách viết báo, tôi biết cả về những lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Tất cả những điều đó đều phục vụ rất tốt cho cuộc sống tôi.
Ở đây tôi muốn nói rằng, nếu chúng ta chỉ định lượng giá trị cuộc sống dựa trên đồng tiền thôi thì rất hẹp. Tôi mong muốn mọi người nhìn rộng ra. Cần phải tạo nên một cơ chế xã hội mà mọi người không còn coi đồng tiền là giá trị cuối cùng để lao theo nữa. Chúng ta cần tiến về phía trước với một giá trị nhân văn hơn, tốt đẹp hơn. Tiền là một nền tảng vật chất quan trọng để xã hội phát triển thôi chứ không phải là tất cả.

Như anh nói, bác sĩ là một nghề đặc biệt, trước hết ở thời gian đào tạo rất lâu so với những lĩnh lực khác. Vậy thì thu nhập của các bác sĩ cũng phải tương xứng với vị trí đặc biệt của mình. Anh nghĩ sao?
- Xu hướng mọi người trong xã hội đều nghĩ rằng nghề y là một nghề rất giàu có và kiếm tiền rất dễ dàng. Cái suy nghĩ đó có phần nào đúng, nhưng cũng có phần không đúng lắm. Có mấy điểm cần phân biệt rõ như sau:
Thứ nhất, thực tế là ở các bệnh viện tuyến trên, bệnh viện tuyến cuối thì điều kiện, khả năng kiếm tiền của người bác sĩ sẽ tốt hơn rất nhiều so với bệnh viện tuyến dưới, đó là sự thật. Thế nhưng thử đếm xem cả nước có bao nhiêu bệnh viện tuyến trên và bao nhiêu bệnh viện tuyến dưới? Trong tổng số khoảng 1.300 bệnh viện thì sẽ có khoảng 40-50 bệnh viện tuyến trên, bệnh viện trung ương, bệnh viện hạng một. Tỷ lệ quá nhỏ, đúng không ạ? Do đó, không thể chỉ nhìn vào một tỷ lệ nhỏ để khái quát cho tất cả. Trong khi đó, những bác sĩ ở bệnh viện tuyến dưới, khả năng kiếm tiền của họ cực kỳ khó khăn, không hề đơn giản một chút nào. Họ phải bươn chải hàng ngày với cuộc sống, đó là một thực tế.
Thứ hai, với các bác sĩ là chuyên gia chuyên sâu, có học hàm học vị, là bác sĩ nổi tiếng thì đương nhiên khả năng kiếm tiền cũng tốt hơn. Họ có cơ hội được mời làm thêm ở những bệnh viện, phòng khám lớn; thậm chí là ở chính trong bệnh viện của họ cũng có các chế độ đãi ngộ riêng. Nhưng tỷ lệ những người đó được bao nhiêu so với đại đa số nhân viên y tế trên cả nước? Con số đó không hề nhiều, số người kiếm được tiền như vậy không hề nhiều!
Thứ ba, nghề y cũng như mọi nghề khác, đâu đó cũng sẽ có một số người có tư tưởng trục lợi, có những khuất tất, nhưng số này không nhiều, tôi khẳng định như vậy. Có thể đâu đó, ở một bệnh viện nào đó sẽ tồn tại 1-2 người như vậy, song hệ thống luôn tìm các giải pháp nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các trường hợp tiêu cực.
Do vậy, khi xã hội nhìn vào ngành y và nghĩ rằng đây là lĩnh vực dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền thì không phải. Đại đa số bác sĩ mà tôi thấy họ có đời sống giàu có thì người ta dường như biết cách kiếm tiền bằng những nghề khác. Ví dụ có đồng nghiệp của tôi kiếm được rất nhiều tiền nhưng là bằng nghề gia truyền của gia đình và coi nghề y chỉ là một nghề cống hiến.

Ở một số quốc gia phát triển có một hình thức như thế này: Họ yêu cầu các bác sĩ phải luân chuyển giữa các chuyên khoa để liên tục cập nhật kiến thức. Trong vòng 5 năm, người bác sĩ cần phải đi sang một khoa khác, không cố định ở một chuyên khoa trừ khi người đó là chuyên gia. Họ cũng yêu cầu các bác sĩ thay đổi bệnh viện giữa hệ thống y tế công lập và hệ thống y tế tư nhân. Một bác sĩ không được phép làm ở hệ thống y tế tư nhân quá 5 năm. Nếu hệ thống y tế tư nhân trên toàn thế giới đều theo một nguyên tắc là tập trung vào những căn bệnh dễ, những căn bệnh kiếm được nhiều tiền từ bệnh nhân thì dù ở bất cứ đâu, ở Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản…, các căn bệnh khó vẫn phải trông chờ vào hệ thống y tế công lập. Do vậy, những bác sĩ làm ở bệnh viện tư nhân sau 5 năm mà không vào bệnh viện Nhà nước thì chuyên môn sẽ dần bị mai một.
Việc yêu cầu tất cả bác sĩ chỉ được làm trong hệ thống tư nhân tối đa 5 năm rồi phải vào bệnh viện Nhà nước là để trau dồi kiến thức. Sau 5 năm phục vụ trong hệ thống bệnh viện công lập thì lại được ra tư nhân. Hình thức luân chuyển như thế cũng sẽ tạo điều kiện điều tiết thu nhập cho các bác sĩ.
Xã hội cần tạo ra một chế độ đãi ngộ với nhân viên y tế để sao cho người ta không còn phải lo vấn đề cơm áo, gạo tiền. Thực ra, nhu cầu của các bác sĩ không cao lắm đâu, bởi vì công việc đã tốn rất nhiều thời gian và công sức của họ rồi. Do vậy, chỉ cần có một chế độ đãi ngộ hợp lý để các bác sĩ yên tâm công tác thì tôi tin rằng, họ sẽ từ chối mọi câu chuyện tiêu cực trong ngành y và tập trung cống hiến.

Tôi được biết là anh đã có nhiều lần đưa ra 5 lời kêu gọi trong lĩnh vực y tế, anh có thể chia sẻ với bạn đọc Dân trí không? Vì sao anh lại đưa ra 5 lời kêu gọi này?
- Đầu tiên, tôi cho rằng nên coi nhân viên y tế, và cụ thể ở đây là coi bác sĩ là tài sản của quốc gia; chữ ký của người bác sĩ là một bảo chứng, giống như một con dấu đỏ, phải được đăng ký ở tầm hệ thống quốc gia và chữ ký đó gần như có thể thay được một con dấu. Và khi đã coi bác sĩ là tài sản quốc gia thì sẽ kéo theo rất nhiều điều khác thay đổi.
Tôi lấy ví dụ, gần đây chúng ta thường xuyên chứng kiến tình trạng bạo hành nhân viên y tế. Bệnh nhân, người nhà bệnh nhân khi không hài lòng là họ có thể tấn công bác sĩ bằng lời nói đe dọa, thậm chí dùng vũ lực. Những vụ hành hung nhân viên y tế khi xảy ra cũng được xử lý giống như mọi cuộc va chạm ngoài đường phố khác, nếu tỷ lệ thương tích dưới 11% hay dưới 13% thì hoàn toàn vẫn chỉ xử phạt hành chính chứ không có câu chuyện truy tố. Còn một khi đã coi bác sĩ là tài sản quốc gia thì tất cả sự xâm phạm về tinh thần cũng như thể chất với người bác sĩ đều là xâm phạm vào tài sản quốc gia, điều đó sẽ giúp giải quyết vấn nạn bạo hành nhân viên y tế một cách dễ dàng hơn rất nhiều.
Điều thứ hai mà tôi rất mong muốn là giảm tải áp lực công việc cho người bác sĩ, bằng cách tăng thêm số ngày nghỉ, số kỳ nghỉ cho nhân viên y tế. Hiện tại, chúng tôi có rất ít thời gian để nghỉ ngơi. Thực trạng các bác sĩ phải làm việc đến hơn chục tiếng đồng hồ mỗi ngày trong bệnh viện là một điều bình thường, phổ biến. Bản thân tôi cũng phải làm việc đến 12 tiếng đồng hồ một ngày, làm việc xuyên trưa vì bệnh nhân rất nhiều. Chẳng còn cách nào khác vì không thể bỏ rơi bệnh nhân.
Chưa kể có những bệnh viện thiếu nhân lực dẫn tới nhân viên y tế vừa mới trực hôm nay, ngày mai vẫn phải ở lại làm việc tăng ca mà hoàn toàn không có thêm chế độ đãi ngộ, không được nghỉ bù. Đáng lẽ trực thứ Bảy, Chủ Nhật thì được nghỉ bù 2 ngày nhưng họ cũng không được phép nghỉ bù, không có phụ cấp ngày nghỉ.
Vì vậy, cần phải tăng số thời gian nghỉ cho nhân viên y tế. Việc đẩy thời gian làm việc của nhân viên y tế lên quá nhiều tôi cho là không hợp lý. Điều đó ảnh hưởng tới sức khỏe tinh thần lẫn thể chất của người bác sĩ, mà quan trọng nhất là ảnh hưởng tới chính hiệu quả của công tác khám, chữa bệnh, gây rủi ro cho bệnh nhân.

Thứ ba là chế độ đãi ngộ đối với nhân viên y tế. Như tôi vừa đề cập trước đó, phải làm sao cho các nhân viên y tế không còn quá băn khoăn về vấn đề cơm áo gạo tiền, đáp ứng cho họ những điều kiện cơ bản nhất, thiết yếu nhất để họ không còn phải lăn lộn mưu sinh, hết giờ làm việc ở cơ quan lại phải lao đi làm thêm đến 9-10h đêm, thứ bảy, Chủ nhật vẫn phải đến các phòng khám bên ngoài. Làm như thế thì rõ ràng, các nhân viên y tế sẽ không thể toàn tâm toàn ý cho công việc chính, không thể cập nhật được kiến thức.
Điều thứ tư là phải giảm áp lực công việc đối với nhân viên y tế bằng các quy định mang tính chất cụ thể. Ví dụ, chúng ta đang không khống chế được số lượng khám, chữa bệnh hàng ngày. Một người bác sĩ làm công tác ngồi phòng khám mỗi ngày có thể phải khám đến hàng trăm bệnh nhân do số lượng bệnh nhân đến rất đông. Họ thậm chí không có thời gian để đi vệ sinh, không có thời gian để nghỉ ngơi, để ăn uống. Bác sĩ rất sợ đi vệ sinh. Bản thân tôi cũng thế, cực kỳ sợ đi vệ sinh, vì không có thời gian. Chỉ cần đi vệ sinh 5-7 phút thôi là công việc đã bắt đầu ngừng trệ rồi. Đây là câu chuyện hoàn toàn có thực.
Nên quy định giảm số bệnh nhân khám, điều trị xuống đối với nhân viên y tế, chẳng hạn giới hạn khoảng 20 bệnh nhân/ngày/bác sĩ, khi đó sẽ giúp bác sĩ có thời gian để tăng tương tác với bệnh nhân. Điều này có lợi cho người bệnh hơn, thay vì bây giờ khi bệnh nhân vào, chúng tôi phải nhanh nhanh chóng chóng tập hợp được trong đầu thật nhiều thông tin, vận dụng thật nhanh kiến thức để ngay lập tức đưa ra chẩn đoán, không có thời gian tương tác, không có thời gian để đọc bệnh án, để xem hồ sơ. Như vậy, để giảm áp lực thì phải lượng hóa được bằng những con số cụ thể, phải quy định bằng số lượng bệnh nhân, số giờ khám trong ngày.
Điều cuối cùng mà tôi mong muốn là làm sao để xã hội thực sự ghi nhận, thực sự tôn trọng bác sĩ, nhân viên y tế. Hiện tại, tôi cảm thấy trong con mắt của nhiều người, một bộ phận bác sĩ đang tìm mọi cách để trục lợi, để kiếm tiền trên cơ thể bệnh nhân. Người ta cho rằng, bác sĩ chỉ coi bệnh nhân là khách hàng, đưa bệnh nhân vào vòng xoáy dịch vụ, mục tiêu kiếm tiền. Chúng ta phải làm thế nào để nghề y là một nghề cao quý; được đứng trong hàng ngũ ngành y chính là một niềm tự hào của người nhân viên y tế, của gia đình và của họ hàng.

Anh kêu gọi giảm áp lực cho các bác sĩ, nhưng thực tế là bệnh viện đang quá tải bệnh nhân. Vì vậy điều đó có vẻ là bất khả thi ở thời điểm hiện nay?
- Để giải bài toán này cho hệ thống y tế thì không thể chỉ là nỗ lực của một cá nhân hay một ngành mà cần sự chung tay của toàn xã hội.
Thứ nhất, cần chính sách đúng và trúng. Ở thời đại công nghệ thông tin hiện nay, các cơ quan quản lý hoàn toàn có thể tham khảo, chắt lọc, vận dụng sáng tạo những cách làm hay của các nước khác, từ Mỹ, châu Âu cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ hai là ý thức trách nhiệm của chính các nhân viên y tế. Cả hệ thống y tế phải thực sự động não, thực sự động tâm, để trái tim mình đập cùng nhịp với ngành y, thể hiện trách nhiệm bằng những việc làm cụ thể, thay vì chỉ làm cho xong nhiệm vụ.
Thứ ba là nâng cao dân trí, đưa giáo dục sức khỏe vào trong nhà trường, truyền thông về kiến thức y khoa một cách sâu sắc đến người dân. Khi người dân có kiến thức tốt thì mọi người sẽ có được biện pháp phòng, chống bệnh khoa học, hiệu quả. Họ thực hành lối sống lành mạnh để phòng chống bệnh tật; khi có bệnh thì hiểu được cơ thể, biết khám chữa bệnh đúng địa chỉ, giảm được áp lực cho hệ thống y tế tuyến trên.

Trong số rất nhiều việc cần làm, nhìn ở góc độ của một bác sĩ, theo anh đâu là những việc nên ưu tiên ở giai đoạn hiện nay?
-Trước mắt, tôi cho rằng, giải pháp đột phá là đi thật sâu vào công tác phòng bệnh. Biện pháp phòng bệnh từ xa cực kỳ quan trọng. Một đồng để phòng bệnh sẽ tiết kiệm được hàng ngàn đồng chữa bệnh về sau này.
Cần phòng bệnh ngay từ khi đứa trẻ trong bụng mẹ còn chưa thực sự hình thành phôi thai, cần phòng bệnh khi những người trẻ đến với nhau mà còn chưa kết hôn đã phải được giáo dục về sức khỏe sinh sản.
Hiện tại, nhiều người dân không có kiến thức về phòng bệnh, ngay cả các bác sĩ cũng chỉ tập trung vào công tác khám, chữa bệnh là chính chứ không tập trung vào công tác phòng bệnh.
Tất cả hệ thống y tế phải tập trung vào phòng bệnh. Không phải chỉ có những người làm công tác y tế dự phòng mới có trách nhiệm đó, mà mọi bác sĩ, kể cả những giáo sư, tiến sĩ chuyên sâu điều trị những căn bệnh chuyên sâu, cũng phải có trách nhiệm phòng bệnh cho toàn dân. Họ phải giáo dục cho người dân cách phòng bệnh, từ đó đưa số lượng bệnh nhân xuống, chứ không thể nào mà càng ngày số bệnh nhân đến với họ càng đông - đấy là cái thất bại.
Phải làm thế nào giáo dục cho người dân phòng bệnh từ xa, chứ không phải chúng ta chỉ tập trung chữa thành công những ca bệnh khó để “khoe” với xã hội, mà phải “khoe” rằng đã giúp người dân phòng bệnh như thế nào. Tôi cho rằng điều đó vô cùng quan trọng, giảm tải được cho bệnh viện. Bác sĩ giúp người bệnh không cần tìm đến mình mới là bác sĩ bác sĩ giỏi. Bác sĩ giỏi giúp bệnh nhân yên tâm rời xa mình, làm chủ được cuộc sống của mình, đó mới là quan trọng. Vậy, công tác phòng bệnh phải là số một, là quan trọng nhất.
Bước đột phá thứ hai là nâng cao kiến thức cho người dân lên. Điều này đòi hỏi công tác giáo dục sức khỏe cho người dân, ngay từ thời kỳ mẫu giáo. Chúng ta giáo dục trẻ từ việc hắt hơi thế nào cho đúng, ho thế nào cho đúng, rửa tay, vệ sinh đúng thế nào... Đưa kiến thức về sức khỏe lồng ghép vào các môn toán, lý, hóa, sinh học, văn học và các môn khoa học xã hội khác.
Tóm lại, chúng ta rất cần những giải pháp tổng thể, và trong đó để đột phá không phải quá khó, mà chúng ta có nhìn ra để quyết tâm làm hay không. Với điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay, với trí tuệ thông minh của người Việt Nam, tôi cho rằng chúng ta hoàn toàn có thể làm được.

Trước khi kết thúc cuộc trò chuyện, anh có thể chia sẻ một điều gì đó với các bạn trẻ đang ở trên ngưỡng cửa bước vào nghề y hay không?
- Tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng, bước chân vào ngành y là sẽ phải trải qua nhiều khó khăn và cần hy sinh rất lớn, cho nên các bạn hãy cân nhắc. Nếu các bạn đủ sự dũng cảm, đủ trí tuệ, đủ lòng nhân từ, sự hy sinh thì các bạn hãy dấn thân, bước vào. Không chỉ riêng Việt Nam mà trên toàn thế giới, ngành y là một ngành rất đặc biệt, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến nhiều hơn so với những gì thu lại được cho bản thân.
Với ngành y, một khi các bạn càng hy sinh nhiều thì các bạn càng thu được nhiều, còn ngược lại, các bạn càng đòi hỏi bao nhiêu thì các bạn càng thất bại bấy nhiêu. Cho nên, nếu các bạn coi ngành y như một tấm áo lung linh để khoác lên mình thì tư duy đó, tôi cho rằng không phù hợp. Ngay kể cả khi những điều tôi mơ ước đều đạt được, đó là coi bác sĩ là tài sản quốc gia, có chế độ đãi ngộ đặc biệt, được toàn xã hội tôn trọng, giảm áp lực làm việc v.v, kể cả như vậy thì một người khi đã bước chân vào ngành y cũng phải trả giá cực kỳ lớn.
Với các bạn trẻ, mơ ước là một chuyện nhưng để bước chân vào ngành y hay không thì hãy nên suy nghĩ, cân nhắc thật cẩn trọng. Và sau khi đã cân nhắc thì hãy hình dung ngành y cũng như các ngành nghề khác mà thôi. Điều đặc biệt của ngành y ở chỗ, cuộc sống của chúng ta luôn luôn giống như một con chim có đôi cánh bị thương vậy. Chắp lên mình đôi cánh bị thương đó, chúng ta phải vượt qua chính nỗi đau của mình để đạt được điều mà chúng ta mơ ước, nó đòi hỏi sự nỗ lực và phấn đấu rất nhiều. Còn nếu không có sự xác định như vậy, khi vào ngành y, các bạn sẽ rơi vào trạng thái khủng hoảng vì phải học quá nhiều, không phải chỉ học về y thuật mà còn phải học nhiều lĩnh vực khác để hoàn thiện bản thân.
Chữa một cái ô tô, các bạn chỉ cần kiến thức về ô tô thôi là được. Nhưng chữa bệnh cho một con người, nếu chỉ biết mỗi viên thuốc, chỉ biết mỗi triệu chứng bệnh học thì chúng ta sẽ thất bại.

Xin trân trọng cảm ơn bác sĩ!






















