Tâm điểm
Nguyễn Thành Hưng

Tuyển sinh đại học: Hồi hộp chờ… thuật toán

Gần nửa tháng sau hạn cuối đăng ký nguyện vọng xét tuyển đại học (28/7), gần 900.000 thí sinh vẫn ngồi đợi. Nhiều trường đại học cũng đợi (để “hệ thống” tập hợp và xử lý dữ liệu). Lịch chung năm nay cho thấy chỉ từ 13/8, các trường mới được tải dữ liệu nguyện vọng về để xét tuyển độc lập, sau đó tải lên hệ thống để chạy 6 lượt lọc ảo trước khi chốt kết quả. Nghĩa là đến lúc này, cả người học lẫn nhà trường đều chưa thể ra quyết định cuối cùng, họ phải chờ “hệ thống”.

Tôi hoàn toàn ủng hộ việc ứng dụng công nghệ trong quản trị tuyển sinh. Nhưng phải chăng cách chúng ta đang vận hành đã vô hình trung đẩy quyền quyết định đi khá xa khỏi những người đáng lẽ phải liên quan trực tiếp đến câu chuyện tuyển sinh này.

Trước hết, cấu trúc “mỗi thí sinh chỉ trúng tuyển một nguyện vọng cao nhất đủ điều kiện” khiến lựa chọn sau cùng không còn nằm ở thí sinh. Ở bước quan trọng nhất, các em phải dồn tất cả vào thứ tự ưu tiên đã khai báo, rồi chờ “hệ thống” quyết định. Tâm lý phòng thủ trước rủi ro vì thế lấn át sở thích thực học, nhiều em đặt “phương án an toàn” lên trên ngành mình thực sự muốn theo đuổi.

Tuyển sinh đại học: Hồi hộp chờ… thuật toán - 1

Thí sinh tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT (Ảnh minh họa: DT)

Thuật toán của hệ thống giúp giảm “thí sinh ảo” cho nhà trường. Nhưng sự tiện lợi ấy không hẳn là thuận lợi với người học. Những năm trước đây một thí sinh có thể nhận được nhiều giấy báo trúng tuyển, và cân nhắc thiệt-hơn dựa trên thông tin tương đối đầy đủ. Còn hiện nay thí sinh không còn quyền chọn lần cuối dựa trên thông tin thực tế (điểm thi, tài chính, học bổng, khoảng cách…), quyết định vào đại học phụ thuộc vào “nguyện vọng cao nhất” đã đăng ký ở giai đoạn mà dữ liệu chưa thực sự rõ ràng.

Về phía các trường, “tự chủ tuyển sinh” nhưng trong thực tế thì trường không được chủ động gọi nhập học những ứng viên phù hợp nhất sau khi đã đánh giá hồ sơ. Trường xét tuyển nội bộ, tải dữ liệu lên và phải đợi hệ thống lọc ảo nhiều lượt rồi mới biết mình “được phân” ai.

Khi đầu vào không đúng mong muốn, nhà trường rất dễ nảy sinh tâm lý đổ lỗi cho… thuật toán. Hơn nữa, vì thuật toán đóng vai trò quyết định quan trọng nên nhà trường sẽ giảm động lực đầu tư vào các phương thức đánh giá toàn diện hơn như phỏng vấn, bài luận, hồ sơ thành tích. Cuối cùng mọi thứ lại quy về điểm số thô, thứ dễ đo đếm bằng phần mềm trong máy tính, nhưng nghèo thông tin về năng lực toàn diện của thí sinh.

Hiện nay những đại học có thương hiệu lâu năm mặc nhiên chiếm vị trí ưu tiên trong thứ tự nguyện vọng, nên thí sinh giỏi tự dồn về đó. Áp lực cạnh tranh để thu hút nhân tài vì thế nhẹ đi với nhóm trường này. Ngược lại, các trường nhóm giữa, các trường tư thục, các cơ sở mới nổi phải loay hoay với phần nguồn tuyển còn lại, chịu rủi ro không đủ chỉ tiêu, tốn kém cho các đợt bổ sung, và khó tạo đột phá dù chương trình có thể đã cải tiến mạnh.

Nếu coi tuyển sinh là “thị trường ghép cặp” giữa năng lực thí sinh và sứ mệnh nhà trường, nguyên tắc nên là tối đa hóa lựa chọn thông tin ở phút cuối cho cả hai bên. Nhiều mô hình quốc tế đã làm được điều này mà vẫn đảm bảo công bằng. Ở Anh, hệ thống trung tâm xét tuyển đại học và cao đẳng (UCAS) quy định rõ cơ chế clearing - giai đoạn xét tuyển bổ sung, cho phép sinh viên tìm kiếm và đăng ký vào các khóa học đại học hoặc cao đẳng vẫn còn chỗ trống sau khi vòng tuyển sinh chính kết thúc. Giai đoạn này kéo dài từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm, kết nối thí sinh chưa có nơi học với các trường còn chỉ tiêu. Thí sinh chủ động gọi, thương thảo và nhận nhiều đề nghị, trước khi xác nhận một chỗ học. Cốt lõi ở đây là mở rộng cơ hội lựa chọn dựa trên thông tin thực, đúng thời điểm.

Triết lý tương tự xuất hiện ở những nền tảng nộp hồ sơ chung như Common Application tại Mỹ - hệ thống nộp đơn trực tuyến tập trung được sử dụng để đăng ký vào hơn 1.000 trường đại học và cao đẳng, thay vì nộp hồ sơ riêng lẻ cho từng trường, bạn có thể dùng một đơn chung để nộp cho nhiều trường cùng lúc. Ở Pháp có hệ thống Parcoursup giúp xét tuyển đại học và cao đẳng tương đương với UCAS tại Anh.

Ở các hệ thống trên, nền tảng công nghệ làm “đường ống” chuyển dữ liệu, còn đánh giá, ra quyết định do từng trường thực hiện. Thí sinh có thể nhận nhiều thư mời và cân nhắc đến sát ngày nhập học. Ở đó, công nghệ phục vụ thị trường lựa chọn, nó không thay thế lựa chọn.

Từ thực tế và mục tiêu chính sách, tôi đề xuất 3 điều chỉnh có thể triển khai trong khung tuyển sinh hiện hành:

Thứ nhất, trao lại “quyền chốt” cho thí sinh bằng cách cho phép tồn tại đồng thời nhiều đề nghị nhập học có thời hạn ngắn, để các em so sánh trên cơ sở thông tin đầy đủ rồi xác nhận một lựa chọn duy nhất khi bước vào giai đoạn cuối. Hệ thống vẫn giữ chức năng chống trùng lặp (lọc ảo), nhưng sẽ chuyển từ “quyết định hộ” sang “kiểm tra ràng buộc” ở bước cuối.

Thứ hai, chính thức hóa một giai đoạn tương đương clearing sau 6 lượt lọc ảo, công khai số chỉ tiêu còn trống và điều kiện vào học, cho phép thí sinh có nhu cầu nhập học được tiếp cận thông tin minh bạch và chủ động đăng ký. Điều này sẽ giảm lãng phí chỉ tiêu, giảm chi phí tuyển bổ sung rải rác, và tăng cơ hội ghép cặp tốt giữa người học và ngành học.

Thứ ba, trong công tác tuyển sinh, cơ quan quản lý tập trung vào chuẩn dữ liệu, an ninh hệ thống, giám sát và công bố thống kê theo thời gian thực (tỷ lệ xác nhận, chuyển trường, bỏ học năm nhất, …) và để xã hội giám sát chất lượng đầu vào - đầu ra. Các trường, trong giới hạn chỉ tiêu đã công bố, thực sự được tự chủ trong tuyển sinh và chịu trách nhiệm giải trình bằng kết quả đào tạo.

Những điều chỉnh trên nếu được xem xét vẫn nằm trong khung quy định về tuyển sinh đại học hiện nay, và hệ thống tuyển sinh sẽ đóng vai trò là hạ tầng công nghệ dùng chung chứ không phải nơi ra quyết định. Khi ấy, ngày 13/8 không còn là thời khắc nhà trường hay thí sinh “nín thở” chờ thuật toán định đoạt, mà là điểm khởi hành cho chu kỳ lựa chọn chủ động của nhà trường và thí sinh.

Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Thành Hưng tốt nghiệp chuyên ngành Chính sách Công tại Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright; hiện đang làm công tác quản lý và giảng dạy tại Trường Đại học Thái Bình Dương, đồng thời là Nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Quản lý Công tại Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TPHCM.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!