DMagazine

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên

(Dân trí) - Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cao nguyên Kon Hà Nừng, tỉnh Gia Lai không chỉ là kho báu về đa dạng sinh học mà còn là không gian văn hóa độc đáo của bà con đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên.

Tại phiên họp thứ 33 của Hội đồng Điều phối quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển (UNESCO - MAB) diễn ra vào tháng 9/2021 tại Nigeria, Cao nguyên Kon Hà Nừng đã chính thức được ghi danh là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Từ dấu mốc ấy, Cao nguyên Kon Hà Nừng được đánh giá là “viên ngọc xanh” của Gia Lai, khi hội tụ những giá trị thiên nhiên, văn hóa và một hệ sinh thái quý hiếm.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 1

Khu dự trữ sinh quyển Cao nguyên Kon Hà Nừng có tổng diện tích hơn 413.500ha. Khu vực này bao gồm vùng lõi là Vườn quốc gia Kon Ka Kinh, Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, vùng đệm và vùng chuyển tiếp rộng lớn bao quanh.

Không chỉ là “mái nhà của Tây Nguyên”, Kon Hà Nừng còn được xem là một trong những trọng điểm về đa dạng sinh học quan trọng bậc nhất tại Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Giữa không gian rừng già mênh mông, Cao nguyên Kon Hà Nừng sở hữu hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới đặc trưng, với mức độ phong phú vào loại hàng đầu cả nước. Hơn 1.700 loài thực vật, 87 loài thú, 326 loài chim và hàng trăm loài bò sát, lưỡng cư, cá cùng côn trùng quý hiếm đã được ghi nhận tại đây, tạo nên một “ngân hàng gen” đồ sộ giữa đại ngàn.

Chính sự phong phú này là nền tảng để Kon Hà Nừng được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, khẳng định vị thế đặc biệt của vùng đất trên bản đồ bảo tồn toàn cầu.

Nổi bật nhất, Kon Hà Nừng được mệnh danh là “thánh địa linh trưởng” bởi sự hiện diện của chà vá chân xám, loài linh trưởng đặc hữu của Việt Nam và nằm trong nhóm 25 loài linh trưởng có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 3

Cùng với đó, khướu Kon Ka Kinh là loài đặc hữu chỉ ghi nhận xuất hiện ở Cao Nguyên Kon Hà Nừng. Sự xuất hiện của khướu Kon Ka Kinh được giới khoa học đánh giá là minh chứng thuyết phục cho giá trị bảo tồn mang tầm toàn cầu.

Bên cạnh hệ linh trưởng nổi bật, nơi đây còn là môi trường sinh sống của nhiều loài thú nguy cấp như mang lớn, mang Trường Sơn, vượn đen má hung cùng với các loài ăn thịt quý hiếm như báo gấm và sói đỏ. Kon Hà Nừng cũng là “kho báu thực vật” với nhiều loài có giá trị bảo tồn toàn cầu như trầm hương, sao Hải Nam,…

Không chỉ dừng lại ở giá trị tự nhiên, Kon Hà Nừng còn là kho tàng văn hóa đặc sắc của đồng bào Bahnar với những nhà rông cao vút, lễ hội cồng chiêng vang vọng, nghi lễ nông nghiệp và nghệ thuật dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Chính sự hòa quyện giữa thiên nhiên và văn hóa đã khiến nơi đây trở thành một trong những vùng sinh quyển độc đáo của Việt Nam.

Kon Hà Nừng không chỉ là niềm tự hào của Gia Lai mà còn là đóng góp quan trọng của Việt Nam vào mạng lưới sinh quyển toàn cầu. Với sự chung tay của chính quyền, cộng đồng, nhà khoa học và các đối tác quốc tế, Cao nguyên Kon Hà Nừng đang được kỳ vọng trở thành mô hình mẫu của phát triển xanh, chuyển đổi sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học ở quy mô quốc gia.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 5
Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 7

Giữa đại ngàn Cao nguyên Kon Hà Nừng, những người bảo vệ rừng vẫn ngày đêm bám chốt, bám rừng trong điều kiện thiếu thốn trăm bề. Họ giữ rừng bằng tất cả tâm huyết, trách nhiệm. Tuy nhiên, mức lương ít ỏi cùng chế độ chưa tương xứng vẫn là nỗi trăn trở đeo bám lực lượng này suốt nhiều năm qua.

Ông Nguyễn Hồng Quân, Quyền Giám đốc phụ trách Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, cho biết đơn vị có khoảng 35 cán bộ, nhân viên. Trong số này chỉ có 15 người là lực lượng chuyên trách bảo vệ hơn 15.000ha rừng tự nhiên.

Theo ông Quân, nghề bảo vệ rừng tưởng chừng lặng lẽ nhưng đầy áp lực khi các cán bộ, nhân viên phải ăn rừng, ngủ suối, bám chốt giữa núi sâu. Mỗi tháng, lực lượng bảo vệ rừng chỉ được về nhà 2 ngày. Tuy nhiên, thu nhập của mỗi người chỉ 3-6 triệu đồng/tháng, khiến không ít nhân viên chạnh lòng, có lúc muốn nghỉ việc.

Trước khó khăn đó, Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng đã xây dựng lực lượng bảo vệ rừng từ nguồn con em đồng bào tại chỗ. Họ là những người sinh ra bên rừng, lớn lên cùng rừng, hiểu từng con suối, từng lối mòn nên việc tuần tra rất thuận lợi.

Nhiều thanh niên Bahnar đã trở thành trụ cột ở các trạm bảo vệ rừng thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng. Họ đang tiếp nối truyền thống gìn giữ đại ngàn mà cha ông bao đời vun đắp.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 9

“Muốn giữ rừng trước hết phải giữ được người. Nhiều năm qua, đơn vị đã nỗ lực tạo điều kiện và chia sẻ những khó khăn để những người giữ rừng không nản lòng, rời bỏ công việc. Họ đang dấn thân và dành trọn tâm huyết vì màu xanh của Kon Hà Nừng”, Quyền Giám đốc phụ trách Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng nói.

Anh Đinh Văn Nên (trú tại làng Điện Biên, xã Sơn Lang, tỉnh Gia Lai) lớn lên bên những con suối, vạt rừng Kon Chư Răng. Vì nhà nghèo, anh từng phải nghỉ học đi rẫy.

Khi được cán bộ khu bảo tồn vận động quay lại trường, anh Nên đã nỗ lực đi học Trung cấp lâm nghiệp và trở thành nhân viên bảo vệ rừng từ năm 2009. Mới đây, anh tiếp tục tham gia học liên thông lên đại học tại Trường Đại học Lâm nghiệp để phục vụ công tác quản l‎ý, bảo vệ rừng. Đến nay, anh Nên đang giữ chức vụ Trạm trưởng Trạm bảo vệ rừng Đắk H’La, xã Sơn Lang.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 11

Anh Nên cho biết vì là người con của buôn làng nên việc tuyên truyền các quy định lâm nghiệp luôn được bà con ủng hộ. Nhiều năm qua, trong xã đã không còn tình trạng khai thác gỗ, lấn chiếm rừng.

“Người dân cùng lực lượng Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng đang giữ rừng như giữ nhà của mình”, anh Nên nói.

Cũng theo Trạm trưởng Trạm bảo vệ rừng Đắk H’La, nghề lâm nghiệp đặc thù bởi phải bám rừng núi suốt ngày đêm. Khi để xảy ra mất rừng, trách nhiệm của người quản lý và cán bộ tuần ra rất lớn.

“Tôi đề nghị cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ đối với lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, để họ yên tâm công tác”, anh Nên mong muốn.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 13

Giữa màu xanh đại ngàn, những bản làng Bahnar ở Gia Lai đã và đang tìm thấy sinh kế bền vững từ rừng. Nhờ chính sách giao khoán và chia sẻ lợi ích, người dân không chỉ hưởng lợi mà còn là người bảo vệ rừng.

Ông Ngô Văn Thắng, Giám đốc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, cho biết đơn vị đã tổ chức giao khoán gần 19.000ha rừng cho 803 hộ dân, cộng đồng. Cộng đồng và nhóm hộ gia đình nhận giao khoán đều có hoàn cảnh khó khăn đã được đơn vị tạo điều kiện thực hiện chính sách khoán quản lý bảo vệ rừng.

Tổng kinh phí chi trả cho các cộng đồng và nhóm hộ nhận khoán trong năm 2024 của vườn là hơn 8,9 tỷ đồng.

Theo ông Thắng, bên cạnh lực lượng chuyên trách, cộng đồng dân cư bản địa cũng là “tai mắt” của rừng Kon Hà Nừng. Việc phối hợp giữa lực lượng chuyên trách và cộng đồng nơi đây là minh chứng sống cho mô hình bảo tồn rừng bền vững tại Khu dự trữ sinh quyển thế giới Kon Hà Nừng.

“Họ cùng nhau giữ rừng là đang bảo vệ sinh kế và bản sắc văn hóa địa phương. Chính sự gắn kết này đã giúp đại ngàn Tây Nguyên duy trì hệ sinh thái phong phú, đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa đặc sắc, xứng đáng với danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển thế giới mà UNESCO trao tặng”, ông Thắng cho hay.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 15

Ông Đinh Văn Khiết, Trưởng thôn Kon Lốc 2, xã Sơn Lang, tâm sự: “Từ ngày có tiền nhận khoán bảo vệ rừng bà con phấn khởi lắm. Đời sống bà con được ổn định khi có gạo để ăn, tiền cho các con đi học đầy đủ. Bà con cũng yên tâm lao động, sản xuất và phối hợp tuần tra, bảo vệ rừng hăng hái hơn”.

Theo ông Khiết, quỹ bảo vệ rừng mang lại lợi ích thiết thực cho dân làng khi mang lại thu nhập mỗi năm hàng chục triệu đồng.

Không chỉ mang lại thu nhập từ tiền khoán, rừng Kon Hà Nừng còn ban tặng nhiều lâm sản phụ như nấm linh chi, nấm cổ cò, sa nhân tím, mật ong rừng, đót, quả xoay… Những sản vật này trở thành nguồn sống ổn định cho hàng trăm hộ dân quanh vùng lõi.

Ông Đinh Minh Bang (trú tại làng Điện Biên, xã Sơn Lang) bộc bạch: “Mỗi năm, tôi thu 80-100 triệu đồng từ khai thác lâm sản phụ như mật ong, nấm rừng, đót, quả xoay. Nhờ rừng mà con tôi được ăn học, gia đình có thêm thu nhập”.

Ông Trương Thanh Hà, Quyền Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Gia Lai, Phó Trưởng ban Quản lý Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cao nguyên Kon Hà Nừng, cho biết việc UNESCO công nhận Cao nguyên Kon Hà Nừng là Khu dự trữ sinh quyển thế giới không chỉ là niềm tự hào của Gia Lai mà còn mở ra cơ hội quan trọng cho công tác bảo tồn cảnh quan, hệ sinh thái và tài nguyên rừng nơi đây.

Khu sinh quyển Kon Hà Nừng, “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn Tây Nguyên - 17

Theo ông Hà, danh hiệu này cũng tạo động lực để người dân phát triển các mô hình kinh tế xanh, thân thiện với môi trường, song hành với gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo của núi rừng Tây Nguyên.

“Để giữ rừng bền vững, trước hết phải giữ được người. Vì vậy, việc xây dựng các chính sách, chế độ phù hợp, động viên lực lượng bảo vệ rừng là vô cùng quan trọng”, ông Hà nhấn mạnh.

Cũng theo Quyền Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Gia Lai, công tác quản lý, bảo vệ rừng được xem là nghề đặc thù khi lực lượng luôn phải nguy hiểm và áp lực cao. Tuy nhiên, lương thấp cùng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng đang khiến việc tuyển dụng lực lượng chuyên trách gặp nhiều khó khăn, nhiều nhân viên bảo vệ rừng từng có ý định nghỉ việc.

Nội dung: Phạm Hoàng

Thiết kế: Tuấn Huy