Tâm điểm
Vũ Tiến Thịnh

Làm gì để giảm thiểu tác hại của mưa lũ lớn ở Nam Trung Bộ?

Đợt mưa lũ, ngập lụt lịch sử tại khu vực Nam Trung Bộ đã gây thiệt hại rất nặng nề về người, nhà cửa, tài sản, tập trung tại các tỉnh: Đắk Lắk, Khánh Hòa và Gia Lai. Trong đó trận “đại hồng thủy” trên sông Ba (Đắk Lắk – Phú Yên cũ) đã gây lũ to, đặt ra những bài học cấp thiết với chúng ta.

Được biết toàn bộ dung tích phòng lũ của 12 hồ chứa lớn nhỏ trên sông Ba cộng lại theo ước tính chỉ được khoảng 0,53 tỷ m³ (tổng dung tích chứa nước tối đa 1,1 tỷ m³). Ở đây tôi không so sánh, nhưng về mặt khoa học, để tiện cho bạn đọc có góc nhìn tổng thể, xin được dẫn số liệu về hệ thống sông Ba (Nam Trung Bộ) và hệ thống sông Đà (Tây Bắc). Các khu vực này chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống sông khác, nhưng tôi tách riêng hệ thống sông Ba và sông Đà để chúng ta dễ hình dung.

Lưu vực sông Đà rộng gấp khoảng 3,8 lần sông Ba (52.900 km² so với 13.900 km²). Nhưng sự khác biệt nằm ở “khoang chứa lũ”. Chỉ tính riêng 4 hồ chính là Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Bản Chát, tổng dung tích phòng lũ của sông Đà đã lên tới khoảng 13,75 tỷ m³ (tổng dung tích chứa nước tối đa 21,3 tỷ m³, chưa kể các hồ nhỏ hơn như Suối Sập, Nậm Chiến…, hồ bên Trung Quốc góp thêm mấy tỷ m³ nữa).

Như vậy, các hồ trên sông Đà có khả năng chứa nước nhằm cắt lũ gấp 26 lần các hồ trên sông Ba. Sau khi tính toán đến sự khác biệt về diện tích lưu vực, trung bình mỗi đơn vị thể tích hồ trên sông Ba phải chống đỡ cho một diện tích lưu vực lớn hơn gấp 7 lần so với cùng một đơn vị thể tích hồ trên sông Đà.

Làm gì để giảm thiểu tác hại của mưa lũ lớn ở Nam Trung Bộ? - 1

Lũ lụt ở khu vực phường Phú Yên, tỉnh Đắk Lắk nhìn từ trên cao (Ảnh: Nam Anh).

Về “lá phổi xanh”, độ che phủ rừng tự nhiên của vùng các tỉnh Nam Trung Bộ (~30%) nhỉnh hơn so với Tây Bắc (~23%). Nhưng rừng tự nhiên ở Nam Trung Bộ lại tập trung nhiều vào Quảng Nam, trong khi độ che phủ rừng tự nhiên của Phú Yên cũ cũng chỉ 23% và lưu vực sông Ba cũng khoảng như vậy hoặc nhỉnh hơn một chút.

Về quy luật tự nhiên, miền Trung chịu đựng thách thức khí hậu rất lớn. Lượng mưa trung bình hằng năm ở đây (2.000–3.500 mm) cao hơn hẳn Tây Bắc (1.400–2.200 mm), và lượng mưa trong tháng mưa lớn nhất có thể lên tới 600–700 mm, có nơi ghi nhận đến 1.500 mm, gấp đôi, gấp ba khu vực Tây Bắc.

Do dung tích hồ nhỏ và lượng mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn, nhìn chung năng lực “chống lũ lớn” của hồ ở Nam Trung Bộ thua khu vực Tây Bắc khoảng 10–15 lần. Chưa kể, hạ du sông Đà còn có hệ thống đê điều kiên cố được con người gia cố trong cả nghìn năm, trong khi miền Trung gần như không có.

Kết hợp tất cả lại, ta có một bài toán hết sức khắc nghiệt: Trong các đợt mưa lớn cực đoan, với lượng mưa trong thời gian ngắn lên đến vài trăm mm, thậm chí có nơi vượt 1.000 mm trút xuống lưu vực sông Ba, nhiều nhất là 23% lượng nước mưa trên được rừng giữ lại, còn phần lớn tràn về hạ du thì những hồ chứa nhỏ sẽ không thể cản nổi.

Về lượng nước xả qua thủy điện Sông Ba Hạ, các cơ quan thủy văn có thể tính một cách chính xác nếu có số liệu đầy đủ. Tuy nhiên, như báo Dân trí đưa tin, chiều 19/11, thủy điện này đã xả lũ từ mức hơn 14.000 m³/giây lên 16.100 m³/giây chỉ sau vài giờ đồng hồ (tương ứng với 58 triệu m³/giờ). Theo tính toán của cá nhân tôi, lượng nước đổ về sông Ba từ ngày 18 đến ngày 21/11 là rất lớn, tuy nhiên con số chính thức xin để cơ quan có thẩm quyền công bố.

Vấn đề là gì? Như tôi đã nêu ở trên, toàn bộ dung tích phòng lũ của 12 hồ chứa lớn nhỏ trên sông Ba cộng lại theo ước tính chỉ được khoảng 0,53 tỷ m³, trong đó hồ Ba Hạ chỉ đóng góp 0,17 tỷ m³. Với dung tích khiêm tốn này và lượng mưa lũ lịch sử như vừa qua thì chúng ta đừng đặt toàn bộ hy vọng vào khả năng chống lũ của các hồ chứa.

Tất nhiên, để giảm thiểu tác hại của mưa lũ nói chung (không chỉ lũ lớn mà cả các cơn lũ nhỏ hơn), chúng ta vẫn rất cần rà soát và giám sát chặt chẽ để phát huy hơn nữa khả năng chống lũ của các hồ chứa. Các ý kiến cho rằng cần xem xét lại cách vận hành các hồ chứa là đúng; và yêu cầu khi dự báo có mưa to, lũ lớn thì buộc các hồ hạ mực nước xuống đến mức thấp nhất có thể để đón lũ là cần thiết.

Với thủy điện, một trong các căn cứ xem xét là phương án đầu tư, vận hành khi phê duyệt dự án, giả sử trường hợp cơ quan quản lý buộc doanh nghiệp ưu tiên chống lũ thì có thể đưa ra phương án hỗ trợ tài chính với doanh nghiệp sao cho phù hợp. Ngược lại, doanh nghiệp vận hành sai gây thiệt hại cho người dân thì doanh nghiệp phải đền bù, chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, trong tương lai, nhà nước hoặc địa phương cũng có thể bỏ tiền ra để mua lại một số thủy điện và vận hành hoàn toàn cho mục đích chống lũ nếu thấy cần thiết và hiệu quả. Tuy nhiên, các phương án vận hành hồ chứa cũng cần đảm bảo an ninh nguồn nước cho hạ du vào mùa khô, phục vụ sinh hoạt, tưới tiêu và sản xuất. Như đã nói, toàn bộ dung tích phòng lũ của 12 hồ chứa trên sông Ba, dù vận hành tối ưu đến mấy cũng chỉ phát huy tác dụng tốt với lũ nhỏ và vừa. Với mưa lũ lớn như vừa qua thì chúng ta phải có nhiều giải pháp đồng bộ để giảm thiểu thiệt hại.

Theo quy luật, các cơn lũ lớn một vài thập kỷ sẽ quay lại một lần ở một số khu vực trũng thấp, tuy nhiên với biến đổi khí hậu và thiên tai cực đoan hiện nay thì không loại trừ lũ lớn sẽ xuất hiện dày hơn. Chúng ta cần quy hoạch lại dân cư để giảm thiểu khu vực thường xuyên gặp nguy hiểm, nâng cao năng lực dự báo thời tiết, cảnh báo lũ lụt sớm, xây dựng bản đồ nguy cơ ngập, chủ động sơ tán dân ở khu vực nguy hiểm, xây dựng cộng đồng tương trợ nhau, tập huấn công tác phòng chống thiên tai, trang bị thiết bị cứu sinh...

Việc nâng cao năng lực cứu hộ, thay đổi phương thức sản xuất để cây trồng, vật nuôi được thu hoạch trước khi vào mùa lũ, tăng khả năng thoát lũ nhanh và bảo vệ tốt những cánh rừng tự nhiên đầu nguồn xung yếu ở phía Đông dãy Trường Sơn cũng cần được tính đến.

Vừa qua lãnh đạo Chính phủ đã yêu cầu sửa chữa, xây dựng lại nhà ở cho người dân khu vực bị lũ lụt trước Tết Nguyên đán 2026. Tôi nghĩ, các căn nhà của người dân vùng lũ nên có ít nhất một gian là mái bằng và có cầu thang lên mái, có bồn chứa nước sạch trên mái.

Tác giả: GS.TS Vũ Tiến Thịnh là Trưởng Khoa Tài nguyên Rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm nghiệp; học giả chương trình Fulbright tại Đại học Cornell, Hoa Kỳ.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!