Bằng giỏi theo kiểu “cả làng cùng vui”
Theo thông tin báo chí đăng tải, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp với bằng giỏi và xuất sắc những năm gần đây ở mức rất cao, nhiều trường đạt 70-90%. Vẫn biết người Việt Nam thông minh, học giỏi, nhưng các con số trên quả là choáng ngợp, chưa từng thấy trước đây, thậm chí với cả những quốc gia có nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới.
Bài học về tiêu chuẩn đánh giá
Tại Đại học Kỹ thuật Munich (TUM) của Đức - trường đứng thứ 22 toàn cầu theo QS Rankings và thứ 13 thế giới về xếp hạng của nhà tuyển dụng - tỷ lệ sinh viên đạt điểm giỏi chỉ khoảng 10-20%. Các trường hàng đầu của Mỹ như MIT hay Stanford có tỷ lệ sinh viên đạt điểm A (tương đương giỏi) dao động mức 30-40%. Tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS), chỉ khoảng 5-10% sinh viên đạt First Class Honours (tương đương xuất sắc), 20-30% đạt Second Class Honours Upper (tương đương giỏi).
Theo ông Phạm Thái Sơn, Giám đốc Trung tâm tuyển sinh Đại học Công nghiệp Thực phẩm TPHCM, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở mức 10% và tốt nghiệp loại khá ở khoảng 30% trong số sinh viên tốt nghiệp, phần còn lại là trung bình khá hoặc trung bình sẽ hợp lý và thuyết phục hơn. Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm này.

Các trường đại học trong nước cần quyết tâm chấm dứt tình trạng lạm phát cấp “bằng đẹp” (Ảnh minh họa: CV)
Việc quá nhiều sinh viên đạt điểm cao được nhiều trường đại học uy tín trên thế giới coi là dấu hiệu đề thi không đủ phân hóa, cần xem xét lại chất lượng giảng dạy và đánh giá. Họ thiết kế đề thi với nhiều cấp độ khó từ câu hỏi cơ bản đến bài toán phức tạp yêu cầu tư duy sáng tạo, đảm bảo phản ánh đúng sự phân tầng năng lực tự nhiên trong nhóm người học.
Trước tình trạng “lạm phát” sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, có ý kiến cho rằng, nhiều trường cần “thành tích đẹp” về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc để làm vừa lòng phụ huynh, sinh viên. Để có “thành tích đẹp” thì cách ra đề thi phải dễ để sinh viên đạt điểm cao. Cùng một nội dung, nếu giảng viên chọn phần dễ, ra đề dễ, thì sinh viên nào cũng có thể đạt điểm “đẹp”; khi sinh viên đạt điểm cao thì nhà trường vui, phụ huynh vui, sinh viên vui, giảng viên lại đỡ mất thời gian, không lo khiếu nại - “cả làng cùng vui!”.
Tuy nhiên, như PGS.TS Nguyễn Phong Điền, Phó Giám đốc Đại học Bách Khoa Hà Nội đánh giá, về nguyên tắc, “dù ở bậc học nào thì tỉ lệ giỏi, xuất sắc phải là hình kim tự tháp, khó có thể xảy ra hiện tượng hình tháp ngược”. Nếu 2 yêu cầu (chuẩn hóa câu hỏi kiểm tra, kiến thức đưa vào giảng dạy) không được các trường chú trọng thì hệ quả là bằng tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc có thể “mất thiêng”.
Một tấm bằng giỏi là điều ai cũng mong muốn, và việc nhiều sinh viên đạt được điều này có thể phản ánh phần nào nỗ lực học tập của các em. Tuy nhiên, đằng sau mỗi tấm bằng đó phải là kiến thức thật và tương xứng để người sở hữu nó có thể dễ dàng chứng minh được bằng khả năng làm việc thực tế, tư duy giải quyết vấn đề, khả năng học hỏi nhanh, cùng với kỹ năng mềm và thái độ cầu tiến.
Trong khi nhiều trường đại học hàng đầu của ta còn đang chật vật phấn đấu để lọt vào nhóm 400-500 trường đại học hàng đầu thế giới, việc tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi quá cao như trên là điều rất không bình thường và đáng phải xem xét lại.
Khoảng cách giữa bằng cấp và kiến thức được đào tạo
Lãnh đạo Học viện Viettel từng chia sẻ, trong 2.000 hồ sơ của sinh viên xuất sắc từ các trường đại học, đơn vị này chỉ đưa về được 100 sinh viên và hầu hết phải đào tạo lại.
Ở góc độ tuyển dụng, khi “giỏi” trở thành điều quá phổ biến, bảng điểm hay tấm bằng loại giỏi không còn đủ sức để doanh nghiệp phân loại và đánh giá chính xác năng lực ứng viên. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của sinh viên mà còn gây tốn kém cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại là “nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu”. Còn theo Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, có hai vấn đề trực tiếp liên quan đến hiện tượng lạm phát bằng cấp: Một là, “hệ thống giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu khoa học”. Hai là, “tâm lý trọng danh vị trong xã hội còn nặng nề, chính sách sử dụng cán bộ còn coi trọng bằng cấp hơn thực lực”.
Để khắc phục tình trạng trên, điều tiên quyết là các trường đại học trong nước phải quyết tâm chấm dứt tình trạng lạm phát cấp “bằng đẹp”, dám nói “không” với áp lực “làm vui lòng” tất cả. Phải sớm có những tiêu chuẩn đánh giá, chấm điểm thống nhất, chặt chẽ và khắt khe hơn trong toàn hệ thống giáo dục và đào tạo. Có hệ thống kiểm tra, đánh giá phản ánh đúng năng lực thực tế, không chỉ dựa vào việc ghi nhớ kiến thức.
Thứ hai là phải thay đổi cách đánh giá thành công của một trường đại học: Trường đó có bao nhiêu sinh viên được tuyển dụng trước và sau khi tốt nghiệp? Mức lương khởi điểm của sinh viên so với trung bình của ngành? Nhà tuyển dụng đánh giá như thế nào về chất lượng sinh viên do trường đào tạo? Bao nhiêu sản phẩm, công nghệ được phát triển từ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp? Từ đó, các trường có động lực mạnh mẽ để duy trì chất lượng thực tế thay vì chỉ làm đẹp con số.
Ba là, cần tăng cường mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, làm việc cùng sinh viên trong các dự án thực tế, họ sẽ đảm bảo rằng sinh viên được trang bị những kỹ năng và kiến thức thực sự cần thiết. Đồng thời, sự hiện diện của doanh nghiệp tạo ra cơ chế kiểm soát chất lượng tự nhiên, khiến việc “làm đẹp số liệu” trở nên khó khăn hơn.
Các doanh nghiệp cần nhìn xa hơn, đầu tư vào quá trình đào tạo của các trường đại học, làm việc cùng giảng viên và sinh viên trong các dự án thực tế thay vì chỉ chú ý đến việc tuyển dụng sau khi sinh viên tốt nghiệp. Đây không phải là từ thiện mà là đầu tư chiến lược cho nguồn nhân lực dài hạn.
Có thể nói, việc nâng cao chất lượng, trong đó chấm dứt tình hình lạm phát bằng giỏi, không để người không giỏi vẫn được trao bằng “đẹp” tràn lan chính là vấn đề cốt lõi nhất giáo dục đại học hiện nay.
Khi tỷ lệ sinh viên loại giỏi giảm xuống khoảng 15-20% nhưng mỗi tấm bằng giỏi thực sự phản ánh năng lực xuất sắc, nhà tuyển dụng sẽ tin tưởng. Khi sinh viên không cần đào tạo lại khi ra trường, doanh nghiệp sẽ sẵn sàng đầu tư và hợp tác với các trường đại học. Khi chất lượng đào tạo được công nhận quốc tế, nhiều trường đại học của Việt Nam sẽ lọt vào top đầu châu Á. Khi đó sẽ không còn những tấm bằng giỏi theo kiểu “cả làng cùng vui” như kể trên.
Tác giả: Ông Ngô Tiến Long là nhà ngoại giao đã nghỉ hưu; nguyên là Cục trưởng Cục Cơ yếu Bộ Ngoại giao. Ông cũng từng là Phó Tổng Biên tập báo Quốc tế (nay là Báo Thế giới & Việt Nam).
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!





















