Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm: Đừng để “nói sao biết vậy”!
Ngày cuối tuần, tôi đi dự hội thảo ở một trường đại học. Xong việc, quay ra gọi taxi không được. Tôi vẫy một cậu chạy Grabbike, trải nghiệm cảm giác đi xe máy xem sao.
Cậu Grab còn rất trẻ và vui chuyện. Hỏi ra mới biết chàng trai này tốt nghiệp một trường cao đẳng ngành thương mại. Cháu cũng xoay đủ nghề nhưng không ổn định nên 3-4 năm nay chạy Grab. Thu nhập khoảng độ 12 triệu đồng/tháng, tiền trọ, tiền ăn khoảng 7 triệu đồng, mỗi tháng vẫn bỏ ra được 5 triệu đồng.
- “Cả lớp chỉ có cháu với một bạn nữa bám trụ được ở Hà Nội. Bạn kia làm quản lý cho một nhà hàng. Sau mấy năm các bạn về quê hết, hỏi thăm cũng chưa mấy ai ổn định chú ạ! Bọn cháu có nhóm Zalo nên vẫn biết thông tin thường xuyên”.
- “Thế nhà trường có khảo sát, hỏi tình hình việc làm của các lớp ra trường không?”.
- “Cháu không thấy ai hỏi, cũng không nghe bạn nào nói về việc đấy. Nhưng nếu được hỏi, cháu chắc bạn nào cũng sẽ nói đang có việc làm rồi. Hay gì mà bảo đang thất nghiệp với thầy cô đâu, mà có nói cũng chẳng giải quyết được gì…”.

Nhiều sinh viên lựa chọn làm xe ôm công nghệ, giao hàng trong khi chưa có việc làm chính thức (Ảnh: Hoài Nam).
Về nhà, tôi mở website trường cao đẳng của cậu ấy ra xem. Tỷ lệ tuyển sinh rất tốt. Ngành đào tạo cũng đa dạng nhưng tập trung vào kế toán, thương mại, du lịch, lữ hành, khách sạn và… công nghệ thông tin. Tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm đạt đến 95%.
Tôi cứ băn khoăn mãi con số 95% này. Tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm không chỉ thể hiện uy tín, thương hiệu của nhà trường mà còn liên quan chặt chẽ đến việc tuyển sinh. Khi nguồn thu của tuyệt đại đa số các trường đại học, cao đẳng chủ yếu phụ thuộc vào học phí thì câu khẩu hiệu “Tuyển sinh hay là chết” không có gì là quá đáng.
Thông tư 03 ngày 18/2/2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định rõ: Chỉ tiêu tuyển sinh của lĩnh vực không được tăng so với năm tuyển sinh trước nếu tỷ lệ số sinh viên tốt nghiệp trình độ đại học có việc làm trong khoảng thời gian 12 tháng kể từ khi được công nhận tốt nghiệp của lĩnh vực đó đạt dưới 80%. Rõ ràng, không ai muốn “vác đá ghè chân mình” khi tuyển được nhiều người học đang là cuộc đua gay gắt của nhiều trường.
Tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm cũng là chỉ số “xương sống” khi các trường tiến hành kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục và kiểm định ngành đào tạo. Theo quy định của Nghị định 81, những ngành đã được kiểm định thì cơ sở giáo dục có quyền tự định ra mức học phí trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo. Đây là lối ra thênh thang cho các trường trong điều kiện tự chủ đại học và tự chủ giáo dục nghề nghiệp còn nhiều nút thắt, nhất là về nhân sự và cơ chế tài chính.
Một chuyên gia về kiểm định chất lượng nhận định: Mọi chỉ số như đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất… được khảo sát về cơ bản chưa phải là kiểm định chất lượng mà chỉ mới là kiểm định điều kiện bảo đảm chất lượng thôi. Cốt lõi của chất lượng là sinh viên tốt nghiệp có đáp ứng được yêu cầu thị trường nhân lực, hay nói cách khác là có việc làm ổn định đúng chuyên môn, có thu nhập phù hợp hay không? Nhưng tỷ lệ này được các trường công bố đều trên 90%, thậm chí không ít cơ sở đào tạo mạnh dạn công bố tới 100%. Với những ngành “hot”, ngành thời thượng thì có thể còn có lý. Nhưng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế đang khó khăn, doanh nghiệp giải thể, cửa hàng đóng cửa hàng loạt mà tỷ lệ sinh viên có việc làm đúng ngành vẫn cao chót vót thì thật bất ngờ!
Có lãnh đạo trường trần tình, nhiều sinh viên không mặn mà với việc duy trì kết nối thường xuyên với nhà trường, đặc biệt là những người chưa có việc làm hoặc làm trái ngành. Chưa kể, nhiều sinh viên sau khi ra trường thay đổi địa chỉ email, số điện thoại hoặc nơi cư trú, dẫn đến việc nhà trường gặp khó khăn trong việc tiếp cận.
Mặt khác, chưa có những hướng dẫn cụ thể, sát sao để việc thống kê tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm và việc làm ổn định, đúng nghề thật nghiêm túc và chính xác. Cơ quan quản lý cũng chưa có cơ chế hậu kiểm để đánh giá lại số liệu do các trường báo cáo. Trong khi đó, có rất nhiều yếu tố để con số này bị sai lạc, thậm chí sai lạc rất xa thực tế. Xu hướng phát triển của xã hội hiện đại đã khiến việc thay đổi nghề là chuyện bình thường. Không còn chuyện học một nghề 3-4 năm rồi ra làm nghề một mạch 35-40 năm như trước. Nhưng lý do cơ bản nhất vẫn là lợi ích và mục tiêu thật của những người thực hiện khảo sát về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm. Nếu tỷ lệ đó càng cao càng có lợi cho nhà trường thì không có gì lạ khi con số do các trường công bố đều cao chót vót.
Có thực tế, một sinh viên thành đạt thường có tâm lý dễ trả lời khảo sát hơn, trong khi những người thất nghiệp hoặc chưa ổn định thường né tránh. Điều này làm mất cân đối dữ liệu, vì chỉ số khảo sát không đại diện cho toàn bộ sinh viên tốt nghiệp. Thậm chí, để xác thực thông tin việc làm, các trường có thể liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng cung cấp thông tin.
Ngành giáo dục đào tạo đang chuẩn bị thực hiện chủ trương sáp nhập đại học. Tương tự, các trường cao đẳng nghề cũng đã và đang phải sắp xếp lại. Các cơ sở giáo dục nhỏ lẻ, đơn ngành, khó tuyển sinh hoặc hoạt động không hiệu quả sẽ được giải thể, sáp nhập theo tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị. Một yêu cầu đặt ra là phải có dữ liệu về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực. Đó là cơ sở để hoạch định các chiến lược phát triển, quyết định mức đầu tư, hướng tới thúc đẩy phát triển đột phá trong giáo dục, đào tạo. Muốn vậy dữ liệu phải mới, sạch, sống và phải liên thông dữ liệu. Nếu dữ liệu của các trường, trong đó xương sống là dữ liệu về tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp không chính xác, thiếu tin cậy, thu thập cho có hoặc chỉ nhằm “đánh bóng” thương hiệu, phục vụ tuyển sinh thì rất khó để có đánh giá thực chất.
Đã đến lúc phải đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt trong thống kê các chỉ số chủ yếu của cơ sở đào tạo. Thống kê về cơ sở vật chất, thiết bị, đội ngũ giảng viên vẫn có thể có sai số nhưng không đáng lo. Cái đáng lo là những con số thống kê có tính biến động cao như tỷ lệ sinh viên có việc làm. Không thể làm ang áng, thống kê chung chung như hiện nay nếu muốn con số ấy là chính xác.
Trước hết, việc báo cáo này phải đặt yêu cầu trung thực và xác thực, gắn với danh sách và địa chỉ việc làm của từng sinh viên, có thể liên hệ và kiểm chứng. Hơn thế, các trường phải coi sự liêm chính trong thống kê này cũng nghiêm ngặt như liêm chính học thuật vì nó liên quan đến chiến lược phát triển nhân lực của quốc gia chứ không còn là “chuyện riêng”, “không chết ai” của cơ sở đào tạo.
Có chế tài gắn với trách nhiệm người đứng đầu, chắc chắn tình hình sẽ được cải thiện. Khi mỗi nhà trường đề cao tính trung thực, quyết tâm xây dựng hình ảnh bằng chất lượng và hiệu quả thật, mỗi cá nhân và doanh nghiệp coi việc thống kê trung thực và kịp thời là trách nhiệm và danh dự của mình, thì tỷ lệ sinh viên có việc làm được các trường công bố mới đáng tin cậy chứ không thể là chuyện “nói sao biết vậy” như hiện nay!
Tác giả: PGS.TS Đỗ Chí Nghĩa là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Văn hóa và Xã hội.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!





















