Hơn 20 năm để "dân chủ cơ sở" đi vào đời sống một cách thực chất
(Dân trí) - Gần bốn thập kỷ gắn bó với ngành Nội vụ, ông Trần Hữu Thắng vẫn nhớ rõ từng dấu mốc của hành trình đưa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" từ một chủ trương thành cam kết chính trị.

Trong không khí thiêng liêng kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành, ông hồi tưởng lại chặng đường 38 năm công tác ở Bộ Nội vụ, từ một chuyên viên Vụ Chính quyền địa phương cho đến cương vị Thứ trưởng. Với ông, một trong những dấu ấn sâu đậm nhất chính là quá trình kiên trì đưa tiếng nói và quyền lợi của nhân dân từng bước được luật hóa, trở thành nền tảng bền vững cho sự phát triển của chính quyền cơ sở.

Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Hữu Thắng (Ảnh: Moha).
Khởi đầu từ những nỗi niềm của nhân dân
Theo vị nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, ý tưởng về quy chế dân chủ cơ sở bắt đầu hình thành vào giữa thập niên 1990, sau gần 10 năm Đổi mới. Khi ấy, người dân ở một số địa phương có những trăn trở: cán bộ cơ sở chưa gần dân; chưa lắng nghe ý kiến của nhân dân, các quyết định liên quan đến quyền lợi của người dân thiếu công khai, minh bạch; nhiều vụ việc kéo dài gây mất lòng tin.
"Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười lúc đó là người khởi xướng vấn đề này, rất cụ thể, sâu sắc. Cố Tổng Bí thư yêu cầu phải có cách thức mới để người dân thật sự được tham gia quản lý nhà nước và xã hội", ông Thắng nhớ lại.
Thực tế đặt ra một câu hỏi: nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua những quy định gì? Bầu cử đã bảo đảm quyền dân chủ đại diện của người dân, nhưng đời sống hằng ngày của người dân - những con đường, trường học, thuế, phí - lại thiếu cơ chế để họ trực tiếp tham gia quyết định. Yêu cầu đặt ra thời điểm đó là phải có quy định về quyền dân chủ trực tiếp của người dân. Đó là lý do Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ chủ trì nghiên cứu, khảo sát và soạn thảo các văn bản về dân chủ cơ sở.
"Qua nhiều năm công tác tại Bộ Nội vụ, tôi được đi thực tế tại nhiều địa phương, chứng kiến có những việc rất cần được giải quyết ngay cho người dân thì lại để kéo dài, gây ra tình trạng bức xúc trong nhân dân. Cái thiếu không chỉ là năng lực mà là trách nhiệm của cán bộ. Chính vì vậy, khi ban hành quy chế dân chủ, trách nhiệm của cán bộ cơ sở với người dân được đề cao, buộc họ phải gần dân, sát dân, hiểu dân hơn", ông Thắng nói.

Khi ban hành quy chế dân chủ, trách nhiệm của cán bộ cơ sở với người dân được đề cao (Ảnh minh họa: Trịnh Nguyễn).
Một hành trình đổi mới dân chủ cơ sở ở địa phương
Ngày 11/5/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP về quy chế dân chủ ở xã. Ông Thắng gọi đây là mốc mở đầu cho "một cuộc đổi mới thực chất ở địa phương", bởi lần đầu tiên có văn bản quy định rõ những gì chính quyền phải công khai, những gì người dân có quyền bàn, quyết định và tham gia giám sát.
"Trước kia, thông báo cho dân hay không do chính quyền quyết định. Có quy hoạch, kế hoạch, dự án không được công khai cho người dân biết, mà đáng lý người dân phải được thông báo. Nghị định 29/CP buộc phải công khai, phải để dân biết, dân bàn. Ví dụ, các khoản đóng góp, xây dựng hạ tầng, hương ước, quy ước của làng xã phải được dân thảo luận, thông qua. Đây là bước mở rộng quyền dân chủ trực tiếp, khẳng định vai trò tự quyết của người dân", ông Thắng nhấn mạnh.
Sau Nghị định 29/CP, hàng loạt quy định tiếp theo được ban hành: Nghị định 71/1998 về dân chủ trong cơ quan hành chính, Nghị định 07/1999 về doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống văn bản này dần hình thành một khung pháp lý đồng bộ, đưa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đi vào thực tiễn cuộc sống ở cơ sở.
Gần 10 năm sau, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Với tư cách Thứ trưởng Bộ Nội vụ lúc đó, ông Thắng trực tiếp tham gia chỉ đạo, xây dựng văn bản và báo cáo các cấp thẩm quyền về văn bản này.
"Sau một thời gian dài triển khai nghị định, chúng tôi nhận thấy cần một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn để bảo đảm tính ổn định và mở rộng phạm vi áp dụng. Pháp lệnh 34/2007 là bước nâng tầm từ nghị định lên pháp lệnh, khẳng định dân chủ cơ sở không phải chỉ là chủ trương mà phải là một chính sách bền vững của Nhà nước", ông Thắng cho biết.
Theo ông, điểm quan trọng nhất khi soạn thảo pháp lệnh là làm rõ trách nhiệm của chính quyền cơ sở và mở rộng quyền tham gia trực tiếp của người dân.
"Người dân hiểu rằng họ có quyền phát biểu, quyết định những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống. Cán bộ cũng buộc phải thay đổi cách làm việc theo hướng sâu sát hơn, biết lắng nghe hơn", ông nhấn mạnh.
Trọng tâm của tiến trình này là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, có hiệu lực từ 1/7/2023. Lần đầu tiên, vấn đề dân chủ ở cơ sở được luật hóa toàn diện, bao trùm cả ba lĩnh vực: ở xã, phường, thị trấn; trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và tại doanh nghiệp, nơi làm việc.
"Đây là thành tựu lớn, khẳng định dân chủ cơ sở không chỉ còn là chủ trương. Từ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, mà mở rộng thành ‘dân giám sát, dân thụ hưởng’. Tức là không chỉ là trách nhiệm mà còn nhấn mạnh quyền lợi của nhân dân, coi đó là mục tiêu cao nhất", ông Thắng nói.
Ông cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của Bộ Nội vụ: "Bộ được giao chủ trì từ soạn thảo, xây dựng nghị định năm 1998 đến pháp lệnh 2007, rồi góp phần cùng các cơ quan có liên quan trong tiến trình soạn thảo luật 2022. Đây là dấu ấn để khẳng định sự cam kết của Nhà nước trong việc thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân".

Lễ trao Huân chương Lao động của Chính phủ CHDCND Lào cho Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Hữu Thắng, tháng 3/2011 (Ảnh: NVCC).
"Ổn định cơ sở mới ổn định được hệ thống chính quyền"
Nhìn lại hơn hai thập kỷ tiến trình xuất phát từ một chủ trương đến Luật, ông Thắng đúc rút: "Chính quyền địa phương có mạnh thì trước hết phải mạnh từ cơ sở. Cơ sở tuy là mắt xích nhỏ nhất nhưng lại quyết định sự ổn định của cả hệ thống chính quyền. Chỉ cần vài xã mất đoàn kết, thiếu ổn định, để tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân là lãnh đạo tỉnh mất ăn mất ngủ. Những mâu thuẫn nảy sinh từ cơ sở nếu không được quan tâm, chỉ đạo giải quyết từ đầu rất dễ dẫn đến những vấn đề phức tạp".
Với ông, điều quan trọng nhất không chỉ thay đổi trong văn bản pháp luật, mà là sự thay đổi trong nhận thức và phương thức làm việc: "Điều tôi thấy rõ nhất là khi thật sự hiểu tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của người dân, cán bộ cơ sở sẽ khách quan, công tâm, hết lòng vì dân. Chính điều đó mới làm cho công việc trôi chảy, tạo niềm tin cho nhân dân".
Thực tế hiện nay chứng minh đây là một tư tưởng xuyên suốt: muốn hệ thống chính quyền ổn định, phải bắt đầu từ nền móng vững chắc ở chính quyền cơ sở. Chính tư tưởng ấy, cùng những cơ chế cụ thể được thể chế hóa, đã trở thành nền tảng để bước vào cuộc cách mạng cải cách bộ máy hiện nay: tinh gọn tổ chức, nâng cao hiệu lực quản lý, gắn bó mật thiết với người dân. Nói cách khác, tiến trình dân chủ cơ sở được khởi xướng từ 1998 đã gieo những hạt giống đầu tiên cho triết lý "lấy cơ sở làm gốc", để từ đó củng cố niềm tin nhân dân và tạo nền móng cho những cải cách sâu rộng về bộ máy nhà nước trong giai đoạn mới.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ cũng nhấn mạnh đến yêu cầu hiện nay, là phải quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số - nơi dân chủ cơ sở càng cần được thực hiện để bảo đảm công bằng, đoàn kết, củng cố niềm tin vào chính quyền.

Nguyên Thứ trưởng Trần Hữu Thắng tại buổi gặp gỡ với các cán bộ Bộ Nội vụ (Ảnh: Nguyễn Sơn).
Từ nghị định đầu tiên năm 1998 đến luật năm 2022, tiến trình xây dựng và hoàn thiện dân chủ cơ sở kéo dài hơn 20 năm, với nhiều bước chuyển quan trọng. Nhân chứng trực tiếp của hành trình này, ông Trần Hữu Thắng khẳng định: "Chúng ta đã biến phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thành hiện thực, mở rộng thành "dân giám sát, dân thụ hưởng". Đó không chỉ là một chủ trương mà là cam kết của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, để nhân dân thật sự là chủ thể trong sự nghiệp đổi mới".