Thêm nhiều người được hưởng lợi từ bảo hiểm thất nghiệp
(Dân trí) - Luật Việc làm năm 2025 mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng thêm số lao động được bảo vệ khi chẳng may mất việc làm, đột ngột mất thu nhập.

Đóng 1% mỗi tháng nhưng hưởng 60%
Theo Luật Việc làm, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động (NLĐ) khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề và tìm việc làm.
BHTN hoạt động theo nguyên tắc chia sẻ, ai đi làm cũng đóng nhưng chỉ người bị mất việc mới được hưởng, giúp chia sẻ gánh nặng tài chính cho NLĐ thất nghiệp trong lúc chưa tìm được việc làm.
Hiện mức đóng và trách nhiệm đóng BHTN được quy định tối đa là 3% tiền lương tháng của người lao động. Tuy nhiên, trong đó doanh nghiệp đóng 1%, nhà nước hỗ trợ 1% và người lao động chỉ đóng 1%.
Như vậy, mỗi năm, Quỹ BHTN thu tối đa là 36% tiền lương tháng của NLĐ, trong đó chỉ có 12% là NLĐ đóng từ tiền lương của mình. Tuy nhiên, khi hưởng, NLĐ được nhận rất nhiều quyền lợi như: Trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế miễn phí, được học nghề miễn phí…
Chỉ tính riêng về trợ cấp thất nghiệp, NLĐ mất việc đã hưởng lợi lớn hơn mức đóng rất nhiều. Cụ thể, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng của NLĐ bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Về thời gian hưởng, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì NLĐ được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp (tối đa không quá 12 tháng).
Điều đó có nghĩa là, chỉ cần đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, NLĐ sẽ được nhận trợ cấp thấp nhất là 3 tháng (mỗi tháng 60% tiền lương tháng), số tiền thực tế được nhận là 180% tiền lương tháng, bằng số tiền mà NLĐ đóng vào Quỹ BHTN trong vòng 15 năm.
Nếu tính theo tỷ lệ đóng – hưởng, cứ mỗi năm tham gia BHTN thì NLĐ cứ đóng 12% tiền lương tháng sẽ được hưởng 1 tháng trợ cấp thất nghiệp là 60% tiền lương tháng, mức hưởng gấp 5 lần mức đóng.

Không chỉ tỷ lệ hưởng trợ cấp thất nghiệp cao hơn mức đóng rất nhiều lần mà số tiền hưởng thực tế của NLĐ cũng cao hơn vì tiền lương tháng căn cứ để hưởng trợ cấp là trung bình 6 tháng gần nhất trước khi thất nghiệp. Trong khi đó, tiền lương tháng đóng BHTN giai đoạn trước có thể rất thấp.
Không phải ai cũng được tham gia BHTN
Với nhiều lợi ích như trên, nhiều NLĐ mong muốn được tham gia BHTN. Tuy nhiên, khác với BHXH có 2 hình thức tham gia là bắt buộc và tự nguyện, BHTN chỉ có 1 hình thức tham gia là bắt buộc dành cho NLĐ làm việc có giao kết hợp đồng.
Theo Luật Việc làm hiện hành, người tham gia BHTN phải là NLĐ của một đơn vị, doanh nghiệp và được trả lương hàng tháng. Mức lương đó là căn cứ để tính toán mức đóng vào quỹ BHTN của NLĐ.
Khi thực hiện dự thảo sửa đổi Luật Việc làm năm 2013, cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu và chỉ ra hạn chế của quy định hiện hành là đối tượng tham gia BHTN chưa bao phủ hết tất cả đối tượng có quan hệ lao động.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 43 Luật Việc làm năm 2013 thì đối tượng tham gia BHTN là NLĐ có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ 3 tháng trở lên.
Do đó, NLĐ có hợp đồng từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHTN nhưng vẫn thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, trong khi đây là đối tượng có nguy cơ mất việc làm cao.

Người lao động được tư vấn việc làm khi đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp tại TPHCM (Ảnh minh họa: Tùng Nguyên).
Từ thực tế trên, cơ quan soạn thảo Luật Việc làm (sửa đổi) đề xuất sửa đổi quy định theo hướng mở rộng đối tượng tham gia BHTN và đã được Quốc hội thông qua (Luật Việc làm năm 2025).
Nhờ vậy, nhóm lao động được tham gia BHTN, được hưởng chế độ khi thất nghiệp, bảo đảm chính sách an sinh, hỗ trợ đời sống khi chẳng may mất việc sẽ được mở rộng rất nhiều.
Mở rộng nhóm lao động được tham gia BHTN
Từ ngày 1/1/2026, đối tượng tham gia BHTN sẽ được mở rộng rất nhiều theo quy định tại Điều 31 Luật Việc làm năm 2025. Cụ thể bao gồm 4 nhóm sau:
Thứ nhất là người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên, kể cả trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên.
Thứ hai là người lao động làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất.
Thứ ba là người làm việc theo hợp đồng làm việc.
Thứ tư là người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc, thành viên Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã có hưởng tiền lương.

So sánh đối tượng tham gia BHTN theo luật hiện hành và Luật Việc làm năm 2025 (Ảnh: Tùng Nguyên).