Từ "Anh trai" đến phim Mưa đỏ: Việt Nam mang chuông đi xứ người được chưa?
(Dân trí) - Góp ý văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, các chuyên gia cho rằng phải phát triển văn hóa đồng bộ, đồng thời cần có một chiến lược lâu dài từ con người đến thị trường để đầu tư cho văn hoá.
Nghệ sĩ Việt Nam không hề thua kém nghệ sĩ quốc tế
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV đang nhận được sự quan tâm, góp ý sôi nổi của các cấp chính quyền, các tầng lớp nhân dân, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu và quản lý trên cả nước.
Lĩnh vực văn hóa được xem là một trong những điểm nhấn đặc biệt, thể hiện sự phát triển sâu sắc trong tư duy lý luận và định hướng chiến lược của Đảng đối với con người và văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Sân khấu "Anh trai vượt ngàn chông gai" được đầu tư hoành tráng, hiện đại (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).
Trong 2 năm trở lại đây, chúng ta chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của văn hoá Việt Nam khi âm nhạc được nhắc nhiều với những concert như: Anh trai vượt ngàn chông gai, Anh trai say hi (gọi chung là "Anh trai"), Tổ quốc trong tim… thu hút 30.000-50.000 khán giả tới xem mỗi đêm.
Cảnh tượng các khán đài chật kín khán giả khiến giới chuyên môn kỳ vọng vào bước phát triển của thị trường âm nhạc nội địa. Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam hiện nay đã có thể tổ chức những concert có quy mô, chất lượng "không thua kém concert của ca sĩ Hàn Quốc". Các show "Anh trai", Tổ quốc trong tim khiến khán giả liên tưởng đến concert BornPink của Blackpink diễn ra tại Hà Nội vào năm 2023.
Bên cạnh âm nhạc, điện ảnh cũng có bước “chuyển mình” mạnh mẽ khi trong năm 2025, hai bộ phim là Mưa đỏ (đạt doanh thu phòng vé hơn 700 tỷ đồng) và Địa đạo (đạt doanh thu hơn 172 tỷ đồng) đã “làm mưa làm gió” ở các phòng vé, khiến khán giả thay đổi quan niệm về phim đề tài chiến tranh ở Việt Nam.
Chia sẻ với phóng viên Dân trí, ông Lê Quang Đức - Thạc sĩ Công nghiệp Văn hóa và Sáng tạo, Đại học Sussex (Vương quốc Anh) - cho biết, thành công của các đêm nhạc "Anh trai", Tổ quốc trong tim hay các phim Mưa đỏ, Địa đạo và loạt phim “ăn khách” của Trấn Thành, Lý Hải đã thiết lập những chuẩn mực mới về quy mô tổ chức và sức lan tỏa văn hoá trong công chúng.
Những thành tựu này cho thấy một sự thay đổi sâu sắc trong tư duy sản xuất và tiêu thụ văn hóa Việt Nam: Từ chỗ bị coi là “phi lợi nhuận”, văn hóa đang khẳng định vai trò là ngành công nghiệp mũi nhọn, có thể đóng góp thiết thực cho tăng trưởng kinh tế.
Đây là điều mà nhiều quốc gia đã từng đi trước, như Vương quốc Anh - nơi công nghiệp sáng tạo chiếm tới hơn 6% GDP và là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế quốc dân - đang hướng tới.

Các concert âm nhạc gần đây đã có tới 50.000 khán giả theo dõi, chứng tỏ sức hút của đầu tư về văn hoá (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).
Ông Quang Đức cũng nhắc đến việc ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đang dần tiếp cận được khán giả thế giới khi các hiện tượng như bài hát See tình của Hoàng Thuỳ Linh, Bên trên tầng lầu của Tăng Duy Tân hay chiến thắng của ca sĩ Đức Phúc tại Intervision 2025 ở Nga vừa qua là một tín hiệu tốt để định vị thương hiệu văn hoá của Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Lê Quang Đức cho rằng, cần phân biệt giữa thành công cá nhân và thành tựu hệ thống. Ông Đức chỉ ra: Nghệ sĩ Việt Nam không hề thua kém nghệ sĩ quốc tế về năng lực, cảm thụ hay xu hướng nhưng giữa tài năng cá nhân và sức mạnh của "công nghiệp âm nhạc" vẫn là khoảng cách rất xa.
"Một vài cánh én không thể tạo nên mùa xuân. Chúng ta có thể nhìn sang Hàn Quốc - nơi mà thành công của Kpop không đơn thuần là sáng tác hay biểu diễn, mà là cả một hệ sinh thái gồm đào tạo, sản xuất, trình diễn, định vị thương hiệu và xuất khẩu văn hóa. Tất cả đều nằm trong chiến lược quốc gia dài hạn.
Tôi cho rằng, chúng ta nên bắt đầu từ những mô hình có sức lan tỏa như các chương trình truyền hình thực tế âm nhạc, nhưng với format bản địa, phản ánh tâm hồn và bản sắc Việt.
Không phải chỉ sao chép hình thức từ nước ngoài, mà là tạo ra một không gian mới, từ chính câu chuyện, âm sắc, hình ảnh Việt Nam. Đó có thể là con đường riêng của chúng ta - như cách ở Anh lẫn Hàn Quốc đều phát triển trường phái âm nhạc của riêng mình", ông Quang Đức nhận định.
Chuyên gia này cho hay, những thành công hiện tại cần được nhìn nhận không chỉ như những hiện tượng cá biệt, mà là chất xúc tác để hoạch định chính sách dài hạn, định vị công nghiệp văn hóa là một trong các trụ cột của phát triển bền vững và bản sắc dân tộc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội - chia sẻ với phóng viên Dân trí rằng, để đưa các sản phẩm âm nhạc, điện ảnh Việt Nam "đi đánh xứ người", thì yếu tố quan trọng không chỉ nằm ở việc sản phẩm của chúng ta xuất hiện ở đâu, mà cần xem chất lượng, bản sắc và thông điệp của Việt Nam có chạm được vào trái tim bạn bè quốc tế hay không.
"Thực tế, Mưa đỏ đã nhận lời mời trình chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế, concert Tổ quốc trong tim, các đêm nhạc "Anh trai" không chỉ là show âm nhạc mà đã trở thành sự kiện văn hóa - tinh thần, đưa câu chuyện Việt Nam, tình yêu nước Việt Nam đến với cộng đồng trong và ngoài nước.
Đó là những tín hiệu đầu tiên, nhưng rất đáng tin cậy, rằng chúng ta đã bắt đầu mang tiếng nói, văn hóa Việt Nam ra thế giới bằng cách kể câu chuyện của chính mình", ông Bùi Hoài Sơn chia sẻ.

Phim "Mưa đỏ" trở thành hiện tượng phòng vé năm 2025 với doanh thu hơn 700 tỷ đồng (Ảnh: Đoàn phim cung cấp).
Tuy nhiên, chuyên gia Quang Đức chỉ ra thực tế, nhiều bộ phim có doanh thu “khủng” trong nước như Bố già, Nhà bà Nữ, Mai của Trấn Thành… khi phát hành ở nước ngoài lại chỉ đạt doanh thu khiêm tốn, với đối tượng khán giả chính là người Việt hải ngoại.
Ngay cả Mưa đỏ - một hiện tượng phòng vé trong nước - cũng mới nhận lời mở rộng phân phối ra thị trường quốc tế.
“Nếu đặt trong tương quan khu vực, chúng ta vẫn còn cách khá xa so với các nền công nghiệp văn hóa phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc hay thậm chí là Thái Lan.
Đơn cử, bộ phim Gia tài của ngoại của Thái Lan đã thu về tới 90 tỷ đồng tại Việt Nam - một thị trường ngoại địa. Trong khi đó, có lẽ chưa có bộ phim Việt Nam nào đạt được doanh thu dù chỉ là 1 tỷ đồng (thậm chí 100 triệu đồng) tại rạp Thái Lan.
Từ góc độ này, giấc mơ về một bộ phim “bom tấn” Việt có sức lan tỏa ở châu Á, chứ chưa nói tới thế giới, vẫn còn nhiều thách thức.
Nó đòi hỏi không chỉ nỗ lực sáng tạo của nghệ sĩ, mà còn là sự phối hợp chiến lược giữa nhà nước, doanh nghiệp, hệ sinh thái truyền thông và nền tảng phân phối quốc tế. Một bộ phim có thể ra rạp, nhưng để “ra thế giới”, cần có hệ thống - một hệ thống mà hiện tại chúng ta vẫn đang xây dựng từng phần nhỏ lẻ”, ông Lê Quang Đức thẳng thắn.
Để ra “biển lớn”, cần tập trung vào chuỗi giá trị văn hoá
PGS.TS Bùi Hoài Sơn chia sẻ thêm, từ những thành công bước đầu của âm nhạc, điện ảnh Việt Nam trong những năm qua văn hóa Việt Nam đang bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ tự tin, hội nhập và kiến tạo sức mạnh mềm quốc gia.
Theo đó, Đại hội XIV là cơ hội để chúng ta thiết kế thể chế, chính sách mạnh mẽ hơn, nuôi dưỡng dòng chảy sáng tạo ấy để không chỉ có thêm nhiều Mưa đỏ, nhiều concert mang tầm quốc gia, mà còn kiến thiết một nền công nghiệp văn hóa hùng mạnh.

NSND Thu Huyền (ở giữa) duyên dáng trong tiết mục "Đào liễu", mang đậm nét văn hoá truyền thống, tại concert "Anh trai vượt ngàn chông gai" (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).
Thạc sĩ Lê Quang Đức cho rằng, để phát triển văn hoá Việt Nam hùng mạnh, đòi hỏi một chiến lược quốc gia rõ ràng, thiết thực và dài hạn - không phải chỉ là những hội thảo lý luận hay các hiệp hội mang tính danh nghĩa.
Theo đó, chiến lược ấy cần xác định rõ những ngành mũi nhọn nên ưu tiên âm nhạc biểu diễn và điện ảnh, từ đó tạo hành lang pháp lý, cơ chế hỗ trợ, và đặc biệt là không gian sáng tạo cho doanh nghiệp tư nhân, tổ chức sáng tạo độc lập.
“Một trong những yếu tố cần đặc biệt chú trọng là cơ chế hợp tác công - tư. Chúng ta cần tránh những tình huống đáng tiếc như trường hợp phim Đào, phở và piano, khi khán giả muốn xem nhưng không có nhiều rạp chiếu, sau đó mới có một vài rạp tư nhân phát hành phim này. Nếu một tác phẩm có sức hút mà lại không đến được với công chúng, thì đó là lãng phí cả nguồn lực và niềm tin.
Để công nghiệp văn hóa có thể “ra biển lớn”, Việt Nam cần một tầm nhìn không chỉ tập trung vào sản phẩm, mà phải quan tâm tới cả chuỗi giá trị: Từ đào tạo nhân lực sáng tạo, sản xuất, phân phối tới tiếp thị toàn cầu. Và trên tất cả, cần giữ vững bản sắc văn hóa - điều làm nên tính khác biệt và sức hấp dẫn dài hạn của bất kỳ nền công nghiệp văn hóa nào trên thế giới”, ông Quang Đức bày tỏ.
Ông Bùi Hoài Sơn dự báo rằng, trong 2-3 năm tới, âm nhạc và điện ảnh Việt Nam sẽ tiếp tục bứt phá. Đây không phải là nhận định cảm tính, mà dựa trên nền tảng thực tiễn rất rõ: Quy mô thị trường khán giả tăng nhanh, sự trưởng thành của lực lượng sáng tạo trẻ, sự hình thành các mô hình sản xuất, phân phối chuyên nghiệp hơn và đặc biệt là tinh thần tự tin văn hóa mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Đây là giai đoạn mà chúng ta phải nắm bắt cơ hội để chuyển từ những thành công mang tính hiện tượng sang những thành tựu mang tính thể chế và hệ sinh thái.
Theo ông Sơn, muốn có nhiều tác phẩm vươn tầm quốc tế, chúng ta cần ưu tiên ba phương diện: Trước hết là hoàn thiện thể chế để khuyến khích sáng tạo. Cần những chính sách mạnh dạn hơn về quỹ đầu tư văn hóa, cơ chế ưu đãi thuế, đặt hàng sản phẩm nghệ thuật công, hỗ trợ phát hành quốc tế, cùng những hành lang pháp lý đồng bộ về bản quyền, thương mại hóa sáng tạo, bảo vệ tài sản trí tuệ.
Văn hóa chỉ có thể thành ngành công nghiệp khi nghệ sĩ yên tâm sáng tác, khi doanh nghiệp yên tâm đầu tư, và khi các tiêu chuẩn nghề nghiệp, đạo đức, bản quyền được bảo vệ.
Thứ hai là đầu tư cho hạ tầng và công nghệ sáng tạo. Thế giới đang chứng kiến sự hòa quyện giữa nghệ thuật và công nghệ: Trí tuệ nhân tạo, vũ trụ số, công nghệ trình diễn, âm thanh - ánh sáng hiện đại, livestream quy mô toàn cầu.
Việt Nam hoàn toàn có thể đi nhanh bằng cách thúc đẩy các trung tâm công nghiệp văn hóa, trường quay tiêu chuẩn quốc tế, trung tâm biểu diễn hiện đại và nền tảng số do người Việt phát triển để đưa sản phẩm ra thế giới. Đây không chỉ là câu chuyện của đầu tư vật chất mà là đầu tư cho năng lực cạnh tranh tương lai.
Thứ ba và quan trọng nhất là phát triển con người. Không thể có điện ảnh tầm quốc tế nếu thiếu biên kịch giỏi, đạo diễn tài năng, kỹ sư âm thanh - ánh sáng, nhà sản xuất và đội ngũ truyền thông chuyên nghiệp.
Không thể có nền âm nhạc lớn nếu thiếu nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc, nhà quản lý tài năng, và hệ thống đào tạo liên thông quốc tế. Chúng ta cần chiến lược đào tạo chuyên sâu, học bổng tài năng, hợp tác quốc tế, cũng như khuyến khích nghệ sĩ trẻ dấn thân, mạo hiểm, kể câu chuyện Việt bằng ngôn ngữ toàn cầu.
Nhìn từ góc độ tầm nhìn, ông Bùi Hoài Sơn cho rằng, chúng ta không chỉ theo kịp xu thế, mà hoàn toàn có thể định hình xu thế mới nếu biết phát huy bản sắc, điều mà các nền công nghiệp văn hóa lớn trên thế giới đều đang tìm kiếm để làm mới chính mình.
"Khi Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới với tinh thần “khát vọng hùng cường”, ngành văn hóa có trách nhiệm đồng hành bằng cách tạo nên những biểu tượng văn hóa, những tác phẩm tầm vóc, và những câu chuyện lan tỏa giá trị Việt Nam ra thế giới", ông nói.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội - chia sẻ với phóng viên Dân trí về hiện tượng "Mưa đỏ" (Ảnh: Dân trí).
Ông Sơn cũng đồng ý với chuyên gia Quang Đức rằng, thách thức lớn nhất hiện nay không chỉ nằm ở nguồn lực hay công nghệ, mà sâu xa hơn là thể chế và môi trường phát triển.
Dù đã có nhiều thay đổi tích cực, nhưng hệ thống chính sách dành cho văn hóa vẫn còn phân tán, thiếu các cơ chế đột phá về vốn, thuế, đầu tư công - tư, đặt hàng sáng tạo, cùng các quy chuẩn rõ ràng về nghề nghiệp, đạo đức và bản quyền trong môi trường số. Đây là những nút thắt mà chúng ta phải tháo gỡ nhanh nếu muốn cạnh tranh trên sân chơi quốc tế.
Một khó khăn nữa là đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho công nghiệp văn hóa. Thị trường đang phát triển rất nhanh, nhưng lực lượng làm nghề - từ biên kịch, đạo diễn, nhà sản xuất, kỹ thuật viên, quản lý nghệ sĩ, truyền thông… đến đội ngũ quản lý văn hóa - chưa đáp ứng đủ cả về số lượng lẫn chất lượng.
Chúng ta cần một chiến lược đào tạo bài bản, hiện đại, liên thông quốc tế; cần biến các trường văn hóa - nghệ thuật thành những “vườn ươm sáng tạo”, nơi kết hợp giữa giảng dạy, thực hành, khởi nghiệp văn hóa và công nghệ.
Ngoài ra, hệ sinh thái sáng tạo vẫn cần được mở rộng mạnh mẽ hơn nữa. Các thiết chế văn hóa chưa thực sự trở thành động lực cho đổi mới sáng tạo; sự kết nối giữa chính sách, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và nghệ sĩ vẫn còn rời rạc; cơ chế xã hội hóa cần minh bạch, thông thoáng hơn.
Đặc biệt, trong kỷ nguyên số, vấn đề quản trị nội dung, bảo vệ bản sắc và nuôi dưỡng thị hiếu công chúng phải được quan tâm đúng mức để vừa khuyến khích sáng tạo tự do, vừa bảo đảm giá trị văn hóa, đạo đức và bản sắc dân tộc.
Nhưng chính những thách thức ấy cũng mở ra cơ hội để chúng ta đổi mới tư duy và hành động mạnh mẽ hơn. Đảng ta đang chuẩn bị cho Đại hội XIV, trong đó xác định rõ văn hóa là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và động lực phát triển.
Đây là thời điểm vàng để thể chế hóa tầm nhìn đó bằng những chính sách đột phá, bằng việc kiến tạo môi trường sáng tạo cởi mở, hiện đại, nhân văn, nuôi dưỡng tài năng và khuyến khích xã hội đầu tư vào văn hóa.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng cho rằng, với chất lượng kỹ thuật ngày càng nâng cao, tư duy sản xuất ngày càng chuyên nghiệp, sự đồng hành của nhà nước thông qua chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa và nguồn lực xã hội hóa ngày càng mạnh mẽ, chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng giấc mơ về những tác phẩm điện ảnh và âm nhạc mang tầm vóc châu Á, thậm chí thế giới, không còn xa vời nữa.

Các chuyên gia tin rằng, khi được đầu tư đồng bộ, công nghiệp văn hoá của Việt Nam sẽ phát triển theo xu thế thời đại (Ảnh minh hoạ: Nguyễn Hà Nam).
"Vượt lên tất cả, thành công vừa qua cho chúng ta thêm niềm tin: Khi tài năng được trao cơ hội, khi thị trường được vận hành đúng quy luật, và khi văn hóa được định vị đúng tầm, Việt Nam hoàn toàn có thể bước ra thế giới bằng giá trị, bản sắc và khát vọng của chính mình.
Đây chính là thời điểm để chúng ta củng cố niềm tin ấy bằng những chính sách mang tính chiến lược, khuyến khích sáng tạo, bảo vệ bản sắc và thúc đẩy hội nhập sâu rộng hơn trong lĩnh vực văn hóa", Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội bày tỏ.
























