DNews

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99

Hà Trang Trần Thành Công

(Dân trí) - Ở tuổi 99, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vẫn có thói quen đọc báo, theo dõi các thông tin về tình hình của đất nước và thế giới.

Đều đặn 6h sáng mỗi ngày, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thức dậy, ăn sáng với chế độ nhiều rau xanh và trái cây. Sau đó, bà vận động nhẹ nhàng, bật ti vi, xem tin tức.

Ở tuổi 99, bà vẫn có thói quen đọc báo theo dõi các thông tin về tình hình của đất nước và thế giới. Thỉnh thoảng tâm đắc trước một chính sách mới, bà nhờ con dâu là chị Mai Thục Trinh in ra giấy với cỡ chữ to để nghiên cứu thêm.

 “Làm việc, vận động trí não giúp tôi minh mẫn và không bị tụt hậu”, bà nói. 

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 1

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và con dâu - chị Mai Thục Trinh (Ảnh: Thanh Hà).

Khi sức khỏe cho phép, bà tham gia các sự kiện, hội nghị quan trọng. Ngày cuối tuần, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình dành thời gian làm việc cùng cán bộ nhà sách, gấp rút hoàn thiện việc chỉnh sửa, tái bản cuốn hồi ký “Gia đình, bạn bè, đất nước”. Tập bản thảo được in cỡ chữ to, bà cẩn thận đánh dấu từng trang đã đọc, gạch chân từng từ, từng chữ, đoạn cần bổ sung, thay thế.

Trong căn phòng khách, đồ đạc được bố trí gọn gàng, ngăn nắp. Những bức ảnh về năm tháng bà hoạt động, chụp ảnh với bạn bè quốc tế ở nhiều nước trên thế giới được giữ cẩn thận, đặt ở những vị trí trang trọng.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 2

Ở tuổi 99, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vẫn nhớ rõ từng mốc lịch sử khi tham gia đàm phán tại Hiệp định Paris (Ảnh: Thanh Hà).

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình từng giữ vai trò Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bà cũng là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định Paris (năm 1973).

Sau ngày thống nhất đất nước, bà từng có 11 năm làm Bộ trưởng Giáo dục, 5 năm làm Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 (Video: Hà Trang - Thành Công - Thanh Hà - Cẩm Tiên).

Cuộc đấu lý căng thẳng tại Paris

Cho đến nay, xem lại những thước phim tư liệu, người ta vẫn ví von hình ảnh của bà ở cuộc đàm phán Hiệp định Paris như “người phụ nữ khiêu vũ giữa bầy sói”, bà suy nghĩ gì về sự so sánh này?

- Tôi là một trong 4 Bộ trưởng Ngoại giao đặt bút ký vào Hiệp định Paris. Đây có lẽ là cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử thế giới, bắt đầu tháng 11/1968, kết thúc ngày 27/1/1973. Khi rời Hà Nội, lên đường cuối tháng 10/1968, tôi không ngờ nó kéo dài đến thế.

Tại cuộc đàm phán bốn bên, cuộc đấu lý diễn ra rất dai dẳng. Hai đoàn chúng ta gồm: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhằm vào Mỹ phê phán, lên án. Còn Mỹ thì tránh né, đẩy cho đoàn Sài Gòn đối đáp.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 3

Bà Nguyễn Thị Bình trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nước ngoài khi tham gia đàm phán Hiệp định Paris (Ảnh: En.baoquocte).

Đồng chí Xuân Thuỷ và tôi đã làm Trưởng đoàn đàm phán đến khi hội nghị kết thúc, trong khi Mỹ thay trưởng đoàn tới 5 lần. Đây cũng thể hiện quyết tâm sắt đá, sự kiên trì của ta và sự lúng túng của phía Mỹ.

Về sự so sánh “người phụ nữ khiêu vũ giữa bầy sói”, cũng phải nói thêm như này. Trong các phái đoàn ở hội nghị, ba đoàn không có thành viên nữ, chỉ đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là có.

Ngoài công việc chuẩn bị cho các cuộc họp, tôi dành khá nhiều thời gian tiếp xúc báo chí. Riêng tôi, có những giai đoạn hầu như ngày nào cũng phải tiếp một hay hai hãng truyền hình hoặc phóng viên các báo Pháp, Mỹ, Anh, Nhật Bản…

Dù không chiến đấu trên chiến trường nhưng thực tế cuộc đàm phán ở Paris là một cuộc chiến rất gay gắt trên mặt trận ngoại giao, chúng tôi vừa đấu trí, vừa đấu lý trong từng câu, từng chữ. Tôi phải cố gắng và giữ sự bình tĩnh trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ. 

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 4

Về sự so sánh “người phụ nữ khiêu vũ giữa bầy sói”, theo bà Bình cho thấy sự căng thẳng, kịch tính trên mặt trận ngoại giao (Ảnh tư liệu).

Thời điểm đó, nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi hình ảnh Việt Nam đang chiến đấu khốc liệt không phải được đại diện bằng một chiến binh đằng đằng sát khí mà bằng một phụ nữ nhỏ nhắn, khiêm nhường mà uyên bác, gần gũi mà sang trọng. Là phụ nữ, lại phải đàm phán một vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc, bà gặp những khó khăn gì?

- Giữa tháng 7/1968, tôi cùng một số đồng chí được lãnh đạo mời lên phổ biến về chủ trương của Đảng về “đánh và đàm”. Trên chiến trường, ta tiếp tục đánh mạnh để cho kẻ địch thấy dù họ có tàn bạo đến đâu cũng không thể khuất phục được nhân dân ta, đây chính là yếu tố quyết định.

Ngoài ra, chúng ta mở thêm mặt trận ngoại giao để thế giới hiểu rõ hơn về mưu đồ và tội ác của Mỹ ở Việt Nam. Mặt trận mới này sẽ giúp ta tranh thủ thêm nữa dư luận quốc tế hỗ trợ đắc lực cho chiến trường.

Chiến tranh phải kết thúc và hai bên sẽ phải ký hiệp định hoà bình trên bàn đàm phán. Thời điểm đó, tôi đã có gần 6 năm hoạt động đối ngoại cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi đã tích lũy được một số kiến thức ngoại giao và kinh nghiệm đấu tranh chính trị, nhưng tôi không nghĩ mình lại may mắn được chọn lựa cho nhiệm vụ khó khăn, nặng nề và quan trọng đối với vận mệnh đất nước: Cuộc đàm phán lịch sử ở Paris.

Trong lúc toàn dân đang chiến đấu, là Đảng viên không có nhiệm vụ nào là không làm được. Trung ương Đảng đã tin tưởng, tín nhiệm và giao cho tôi nhiệm vụ, chúng tôi phải nỗ lực hoàn thành.

Chúng tôi hiểu sâu sắc rằng, dù nhiệm vụ của mình có khó khăn đến mấy cũng không thể so sánh được với sự hy sinh của đồng bào, chiến sĩ ta trên chiến trường.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 5

Cuộc đàm phán ở Paris là một cuộc chiến rất gay gắt trên mặt trận ngoại giao (Ảnh tư liệu trong hồi ký “Gia đình, bạn bè, đất nước”).

Những năm đàm phán ở Paris, có những cuộc họp báo bà phải tiếp xúc với hơn 400 nhà báo, trả lời phỏng vấn bằng tiếng Pháp. Đứng trước sự áp đảo của báo chí phương Tây, bà có cảm thấy áp lực?

- Việc trả lời với các nhà báo phương Tây lại bằng tiếng Pháp đúng là nhiệm vụ khó khăn nhưng tôi không quá áp lực. Hơn nữa, trước mỗi cuộc tiếp xúc báo chí tôi luôn được các đồng chí trong đoàn quan tâm và động viên. 

Đa phần là các nhà báo khá thiện cảm với đoàn Việt Nam, nhưng cũng có nhiều người hỏi “soi mói” để thử phản ứng của ta. Có nhà báo hỏi tôi: “Bà có phải là Đảng viên Đảng cộng sản không?, tôi chỉ mỉm cười trả lời: “Tôi là người yêu nước, Đảng của tôi là Đảng yêu nước, kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do của đất nước”.

Đối phương cũng như một số báo chí thường xoáy vào vấn đề có quân đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam không? Chúng tôi được chỉ thị không nói có mà cũng không nói không. Tôi trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược”. Các nhà báo xoay đi xoay lại thế nào chúng tôi cũng chỉ một mực giữ nguyên cách nói đó, cuối cùng họ cũng đành chịu.

Phải khẳng định rằng, chúng ta không hề muốn có chiến tranh. Chính thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã buộc nhân dân ta phải đứng lên tự vệ.

Tôi nhớ nhất cuộc gặp mặt báo chí trên truyền hình trực tiếp vào giữa năm 1971. Truyền hình Pháp có sáng kiến tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington. Có 20 nhà báo tham gia, 10 người phần lớn là Mỹ coi như bảo vệ lập trường của Mỹ, 10 người khác phần lớn là Pháp coi như trung lập, khách quan.

Khi được mời, tôi có phần ngần ngại, nghĩ mình chỉ có một mình giữa bao nhiêu nhà báo sừng sỏ, không quen biết, lại phải tranh luận bằng tiếng Pháp. 

Gần 2 tiếng đồng hồ căng thẳng dưới ánh đèn sáng chói của trường quay. Các nhà báo chủ yếu xoay quanh lập trường của Mỹ và Việt Nam tại bàn đàm phán. Tuy hồi hộp song tôi vẫn cố gắng bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hoà nhã, nêu rõ thiện chí của chúng ta muốn tìm giải pháp chính trị, chấm dứt đau khổ của nhân dân và cũng kiên quyết đến cùng vì tự do, độc lập và thống nhất thiêng liêng của đất nước…  

Kết thúc họp báo, tôi thở phào vì đã hoàn thành một nhiệm vụ phức tạp. Đồng chí Xuân Thuỷ điện thoại khen: “Cô rất dũng cảm”. Nhiều bạn Pháp, nhất là các bạn nữ thì gọi điện hoan hô, coi đây là một thành công quan trọng. Nhiều ngày sau đó, báo chí còn tiếp tục nói đến sự kiện này.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 6

Việc trả lời với các nhà báo phương Tây lại bằng tiếng Pháp đúng là nhiệm vụ khó khăn nhưng với nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình không quá áp lực (Ảnh: Thanh Hà).

Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris, bà có cảm xúc gì?

- Ngày 27/1/1973, ngày ký kết Hiệp định Paris có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc. Đối với tôi, đây cũng là ngày không thể quên trong đời, tôi vô cùng xúc động.

Tôi nhớ rất rõ, sáng hôm đó, trước tòa nhà, hàng nghìn người vẫy chào chúng tôi giữa một rừng cờ. Tôi bước vào phòng họp với tâm trạng hồi hộp.

10h, bốn Bộ trưởng Ngoại giao đại diện các bên gồm: Đồng chí Nguyễn Duy Trinh đại diện của Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tôi Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ là ông William P.Rogers, còn Việt Nam Cộng hoà là ông Trần Văn Lắm, cùng ngồi vào bàn. Mỗi người ký vào 32 văn bản của Hiệp định.

Đặt bút ký, tôi như thay mặt nhân dân và các chiến sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, vinh dự đó đối với tôi thật to lớn.

Tôi nghĩ đến những anh hùng đã hy sinh, đổ xương máu ở mặt trận để góp phần có được bản Hiệp định Paris lịch sử này. Thời điểm đó, tôi rất hy vọng Hiệp định sẽ chấm dứt chiến tranh, kết thúc những đau khổ của nhân dân ta.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 7

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký văn kiện Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp) (Ảnh: Văn Lượng - TTXVN).

Cuộc gặp đặc biệt với Tổng Bí thư Đỗ Mười

 Được biết năm 1992, bà đang ở TPHCM thì Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm và đề nghị bà làm Phó Chủ tịch nước khóa tới. Lúc đó bà đã 65 tuổi, quá tuổi nghỉ hưu, nên ban đầu bà từ chối. Sau đó bà đồng ý nhận nhiệm vụ, bà có thể chia sẻ rõ hơn về quyết định này?

- Khi đồng chí Đỗ Mười, Tổng Bí thư đến thăm và cho biết, các đồng chí trong Bộ Chính trị dự định cử tôi làm Phó Chủ tịch nước trong kỳ Quốc hội khoá tới, tôi lúc đó cảm thấy rất bất ngờ.

Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối, vì lúc đó, tôi cũng đã 65 tuổi, quá tuổi nghỉ hưu theo quy định chung, hơn nữa tôi đã có kế hoạch về sống ở TPHCM. Phản ứng đó là sự bộc lộ tự nhiên.

Nhưng sau đó tôi cũng suy nghĩ: Mình có làm gì cũng là vì đất nước, không phải vì mục đích nào khác. Cuối cùng tôi đồng ý nhận nhiệm vụ mới, tiếp tục công tác.

Tôi tiếp tục thêm mười năm nữa, trong hai nhiệm kỳ Phó Chủ tịch nước.

Trong vị trí mới, tôi được Chủ tịch nước Lê Đức Anh phân công giúp đồng chí một số việc trong hoạt động đối ngoại, chăm lo một số công tác xã hội: Giáo dục, y tế sau này là phụ trách thêm công tác thi đua khen thưởng nhà nước, giám sát hoạt động tư pháp. Những công việc này, không xa lạ với tôi.

Khi bắt đầu nhận nhiệm vụ tôi đã 65 tuổi, trong hai nhiệm kỳ tôi nghĩ mình đã làm tốt trọng trách được giao.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 8

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cho biết, hàng ngày bà đọc báo, xem tin tức để nắm bắt tình hình trong nước và thế giới (Ảnh: Thanh Hà).

Món nợ ân tình với Iraq

Từng là “sứ giả hòa bình” tại Hội nghị Paris, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Ngoại giao; 10 năm làm Phó Chủ tịch nước với nhiều cống hiến về ngoại giao, giáo dục, tư pháp. Trong suốt quá trình công tác, điều gì khiến bà tâm đắc nhất?

- Trong thời gian còn đương nhiệm, công tác ngoại giao là hành trình dài nhất của tôi. Công việc này đã mang lại cho tôi rất nhiều điều quý giá, tôi có những tình bạn quốc tế trân quý và theo tôi cả cho đến những năm tháng sau này.  

Tôi nhớ vào năm 1991, tại Cộng hòa Benin diễn ra hội nghị cấp cao của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, lần đầu tiên, tôi gặp Tổng thống Pháp Jacques Chirac, ông tiếp đón tôi rất nhiệt tình.

Giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp qua nhiều thăng trầm lịch sử đã hình thành mối quan hệ hữu nghị. Trong dịp này, tôi nêu vấn đề tại sao nước Pháp đặt Việt Nam ở loại nước thứ 4 trong quan hệ ưu tiên thương mại của mình? Ông Jacques Chirac gọi ngay người trợ lý của mình và nói: “Không lý nào, cần xếp ngay Việt Nam vào loại nước thứ ba”. Sau lần đó tôi có nhiều dịp tiếp xúc với ông và lần nào ông cũng rất cởi mở, ân cần.

Với các nước ở châu Phi, tôi cũng có dịp đi thăm nhiều lần. Đối với Việt Nam, bạn bè ở đây hết sức hâm mộ, yêu quý. Lần nào đoàn chúng tôi đến cũng được đón tiếp rất trọng thị, Tổng thống các nước thường cho chuyên cơ riêng đưa chúng tôi đi hết nước này đến nước kia.

Đặc biệt, tôi còn nhớ kỷ niệm sang Iraq gặp Tổng thống thời điểm đó là ông Saddam Hussein để nói chuyện về số nợ mà Việt Nam vay Iraq nhưng chưa trả hết. 

Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam, tôi thăm Iraq vận động nước này cho vay dầu. Ông Saddam Hussein - Phó Chủ tịch Hội đồng Chỉ huy Cách mạng - tuyên bố tặng Việt Nam 400.000 tấn dầu - món quà gửi nhân dân miền Nam nhân ngày chiến thắng và cho vay thêm 1,5 triệu tấn dầu nữa. Tôi không tin vào tai mình, phải hỏi lại người phiên dịch mới chắc chắn đó là sự thật. 

Theo Hiệp định giữa hai bên, năm 1979 là thời điểm chúng ta phải bắt đầu phải trả đợt đầu tiên cho Iraq. Lúc đó, đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế bị tàn phá nặng nề nên Việt Nam không trả được nợ cho Iraq theo hạn định. 

Trước khi nghỉ hưu, tôi muốn sang thăm nước bạn, gặp ông Saddam Hussein để nói chuyện về món nợ này. 

Tại thủ đô Baghdad, tôi được tiếp đón rất nồng hậu, như một thượng khách tại lâu đài Al-Faw. Trong cuộc gặp, tôi bày tỏ, năm 1975, Tổng thống quyết định cho Việt Nam vay dầu. Lúc đó chúng ta còn rất trẻ. Đến bây giờ chỉ còn vài tháng nữa là tôi nghỉ hưu, chúng tôi vẫn chưa trả được hết nợ cho Iraq. Tôi cảm thấy trong lòng không vui. 

Đáp lại, ông Saddam vui vẻ nói, mong bà nghỉ hưu bình yên, giữ sức khỏe, không phải suy nghĩ gì. Từ giờ phút này trở đi, giữa hai nước không có nợ nần gì với nhau nữa. Tôi không tin vào tai mình, phải quay sang hỏi ông Nguyễn Quang Khai - thời điểm đó là Đại sứ Việt Nam tại Iraq. 

Ông Saddam nói: "Không biết Việt Nam còn nợ Iraq bao nhiêu, 17h chiều, tôi sẽ cử Phó Tổng thống Taha Yassin Ramadan đến nơi bà đang ở để ký Biên bản thỏa thuận xóa toàn bộ số nợ này". Đúng thời gian đã hẹn, ông Taha mang văn bản đến nơi tôi ở để ký thỏa thuận xóa nợ.

Saddam Hussein có sai lầm gì trong đối nội, đối ngoại, với nhân dân của ông, lịch sử của Iraq sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta biết ơn sự giúp đỡ quý báu của ông trong những năm Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh.

Cuộc sống ở tuổi 99

 Đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc gia, về nhà lại là người vợ, người mẹ. Bà làm thế nào để cân bằng mọi thứ?

- Tôi luôn cố gắng làm tròn vai trò với gia đình và đất nước. Dù vậy, không phải lúc nào mọi thứ với tôi cũng cân bằng và hoàn thành trọn vẹn.

Trong lúc tôi đi làm nhiệm vụ cách mạng, công tác đối ngoại, có thời điểm xa nhà đến vài năm, tôi không chăm sóc, dạy dỗ được con cái. Đó là một sự thiệt thòi và hy sinh mà gia đình phải chấp nhận. Vào thời đó, những người đi hoạt động như tôi cũng phải chấp nhận như vậy. 

Tôi thực sự hạnh phúc vì có người bạn đời luôn thông cảm và yêu thương. Chồng tôi đảm đương cả công việc gia đình trong những năm tháng tôi xa nhà, để tôi yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Các con tôi cũng rất hiểu chuyện và tự lập, kể cả khi nhỏ đến lúc trưởng thành, chưa bao giờ các con dựa vào “thế” của bố mẹ. Đây là điều hạnh phúc và tự hào đối với tôi.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 9

Hàng ngày, người con dâu bà là chị Mai Thục Trinh luôn kề cận, in sách báo cỡ chữ to để bà đọc và nghiên cứu (Ảnh: Thanh Hà).

Hiện nay, bà đã 99 tuổi, một ngày của bà diễn ra như thế nào?

- Hàng ngày, thời gian chủ yếu của tôi là nghe tin tức, đọc báo. Tôi đọc nhiều báo ở các lĩnh vực khác nhau để nắm bắt tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và thế giới.

Tôi còn niềm vui và hạnh phúc là dù đã nghỉ hưu, tuổi đã cao nhưng vẫn có rất nhiều bạn bè cũ, con cháu đến thăm. Mỗi ngày có những anh chị em đến tâm sự với tôi, nhờ tôi góp ý về việc chung cũng như việc riêng.

Các con và cháu lo tôi mệt, thường nhắc tôi phải nghỉ. Nhưng tôi thấy mình không thể một ngày không làm việc khi mình còn có thể đóng góp. Bây giờ mắt tôi mau mỏi và tai cũng không nghe rõ như trước nữa, nên đọc sách báo, xem tin tức một lát là phải nghỉ.

Đời thường của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 99 - 10

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ký tặng phóng viên Dân trí (Ảnh: Thanh Hà).

Vừa rồi đất nước ta có những ngày lễ lớn kỷ niệm trọng đại (50 năm Giải phóng miền Nam, 80 năm Quốc khánh), với những cuộc diễu binh, diễu hành được nhân dân cả nước ủng hộ nhiệt tình. Bà có cảm nhận như thế nào về tinh thần yêu nước của nhân dân ta?

- Có lẽ hiếm có quốc gia nào mà tinh thần yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc lại cao như Việt Nam. Cả nước, toàn dân cùng nô nức hướng về ngày lễ lớn của dân tộc.

Chưa bao giờ đất nước có thế và lực như hiện nay. Tôi tin ở vận mệnh của Tổ quốc. Một đất nước, một dân tộc đã chiến đấu, hy sinh anh hùng như nhân dân ta xứng đáng có một tương lai huy hoàng và chắc chắn có đủ ý chí cùng sức mạnh để làm nên tương lai đó.

Cơ hội càng lớn thì khó khăn, thách thức cũng càng nhiều. Có vượt qua được thách thức để đạt được mục tiêu mong đợi hay không, câu trả lời phụ thuộc vào thế hệ hôm nay. Những người đang chịu trách nhiệm về đất nước hiện nay nhất thiết phải đảm nhận trách nhiệm đó. Thế hệ trẻ nhất thiết phải sẵn sàng gánh vác, làm nên tương lai tươi sáng của dân tộc.

Tinh thần yêu nước, đoàn kết của dân tộc của nhân dân ta phải được thể hiện mạnh mẽ trên tinh thần tự lực tự cường trong lao động xây dựng đất nước, tạo dựng nội lực quốc gia ngày càng lớn mạnh. Hạnh phúc của đất nước sẽ là hạnh phúc của con em chúng ta. 

Xin chân thành cảm ơn bà về cuộc trò chuyện, kính chúc bà thật nhiều sức khoẻ!

Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật là Nguyễn Châu Sa, là cháu ngoại của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Bà sinh ngày 26/5/1927, quê quán ở Điện Bàn, Quảng Nam nay thuộc TP Đà Nẵng. 

Bà tham gia hoạt động cách mạng từ tháng 8/1945. Bà từng là Uỷ viên Trung ương Đảng khóa: V, Đại biểu Quốc hội khóa: VI, VII, VIII, IX, X.

Tháng 8/2025, bà vinh dự được nhận danh hiệu Anh hùng Lao động. 

Trước đó, bà từng được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất…

Ảnh: Thanh Hà Lê