DNews

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc

Hương Hồ

(Dân trí) - Phía sau những chiến công lừng lẫy, cuộc đời tình báo của Thiếu tướng Đặng Trần Đức - Ba Quốc còn là câu chuyện xúc động về sự hy sinh, tình yêu thương kỳ lạ của 2 người phụ nữ đã đi qua đời ông.

Thiếu tướng Đặng Trần Đức (1922-2004), mật danh Ba Quốc, là điệp viên huyền thoại, biểu tượng của trí tuệ và lòng trung thành trong lịch sử tình báo Việt Nam.

Trong hơn 20 năm hoạt động "trong lòng" địch, ông Ba Quốc là điệp viên duy nhất thâm nhập được vào cơ quan tình báo cao cấp nhất của chính quyền Sài Gòn, với tư cách là sĩ quan tình báo làm việc tại Cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống và Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 1

Nhà tình báo Ba Quốc (bên phải) và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (Ảnh: Tư liệu).

Ông cũng là một trong những vị tướng tình báo bí ẩn nhất, không chỉ với công chúng mà còn với cả lực lượng vũ trang và lãnh đạo đất nước. Rất ít người biết về những chiến công lẫy lừng của ông, trừ những cán bộ có trách nhiệm trong ngành tình báo cùng một số ít vị lãnh đạo cấp cao trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng và an ninh quốc gia.

Cuộc đời ông Ba Quốc gắn liền 3 cuộc chiến lớn: Chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc. Ông đã thực hiện nhiều điệp vụ siêu hạng góp phần quyết định vào thắng lợi của cách mạng, giảm thiểu tổn thất sinh mạng trong chiến tranh.

Trong đó, sự kiện nguy hiểm nhất là lần ông Ba Quốc giải cứu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và 9 đặc khu ủy viên Sài Gòn - Gia Định thoát khỏi sự truy bắt của mật vụ. Tuy nhiên, vào thời điểm câu chuyện được công bố, nhiều người, trong đó có gia đình Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, không tin vào việc này cho đến khi thông tin được Tổng cục II xác nhận.

Ông cũng triệt phá chuyên án Stay Behind in North Vietnam của Mỹ, xóa sổ 7 ổ gián điệp ở miền Bắc, sau đó chỉ huy bắt gọn thêm 35 ổ gián điệp khác, làm sạch toàn bộ mạng lưới còn sót lại.

Sau ngày thống nhất, ông trở thành chỉ huy tình báo chiến lược, là người đầu tiên phát hiện âm mưu diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, kịp thời tham mưu cho Tổng hành dinh, góp phần giải phóng Campuchia thoát nạn diệt chủng và củng cố biên giới Tây Nam.

Với cống hiến xuất sắc, ông được phong Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1978) và thăng hàm Thiếu tướng (1990).

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 2
Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 3

Tại Nhà lưu niệm Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Đặng Trần Đức, hai tấm di ảnh của bà Thanh, bà Xuân đặt trang trọng cạnh di ảnh người chồng. 

Để có được những chiến công phi thường đó, ông đã đánh đổi hạnh phúc riêng, chấp nhận sống trọn đời trong một vỏ bọc hoàn hảo được xây dựng tỉ mỉ.

Giữa lòng địch, ông hóa thân thành một con người khác với thân phận và cả một gia đình “giả” hoàn chỉnh, đến mức đối phương tinh vi nhất cũng không thể lần ra.

Chính hoàn cảnh này đã tạo nên câu chuyện “một ông - hai bà” hiếm có trong lịch sử tình báo, nơi mỗi mối quan hệ dù mang hình hài một cuộc hôn nhân, đều gắn với nhiệm vụ và sự trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.

Tại Nhà lưu niệm Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Đặng Trần Đức - bà Đặng Thị Chính Giang (con gái ông) - chia sẻ với  phóng viên Dân trí những ký ức về người cha - người chiến sĩ tình báo lừng lẫy một thời. 

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 4

Áo dài và áo len của bà Phạm Thị Thanh - vợ đầu của ông Ba Quốc - được cẩn trọng lưu giữ trong tủ kính tại Nhà lưu niệm.

"Tôi đồng ý cho chồng đi lấy vợ mới, thống nhất đất nước thì trả chồng về cho tôi"

Với những người am hiểu hành trình hoạt động của nhà tình báo Ba Quốc, khi nhắc đến ông, họ luôn nhớ đến một gia đình gần như suốt đời sống trong lặng lẽ. Đó là gia đình của bà Phạm Thị Thanh - người vợ đầu tiên của ông.

Bà vốn là chiến sĩ an ninh Việt Minh, cùng ông tham gia phá vụ án Ôn Như Hầu nổi tiếng ở phố Hàng Bún, Hà Nội, ngay sau Cách mạng tháng Tám.

Chính tại căn nhà nhỏ ở phường Vĩnh Hưng, Thiếu tướng Đặng Trần Đức đã đưa ra một quyết định lịch sử đầy day dứt: Từ biệt người vợ tào khang - đồng chí của mình - để lên đường nhận nhiệm vụ tối mật tại miền Nam.

Khi ấy, con gái đầu lòng của ông (bà Giang) chỉ mới 5 tuổi, còn đứa con thứ 2 chưa kịp chào đời.

"Chuyến ra đi ấy không chỉ là hành trình dài nhất trong cuộc đời ba, mà còn khởi đầu cho chuỗi năm tháng đằng đẵng của sự chờ đợi đối với gia đình tôi. Tôi cho rằng sự hy sinh lớn lao, chấp nhận ly tán của mẹ đã tạo nền móng cho những chiến công siêu hạng mà ba tôi đã lập được sau này", bà Chính Giang chia sẻ.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 5

Bà Đặng Thị Chính Giang - con gái ông Ba Quốc và bà Thanh - chia sẻ với phóng viên Dân trí.

Theo bà Giang, năm 1954 đánh dấu bước ngoặt quan trọng "làm thay đổi hoàn toàn gia đình bà". Thời điểm đó, cha bà - ông Đức (với bí danh Nguyễn Văn Tá) đang hoạt động ngầm trong Sở Mật thám của chính quyền Pháp.

Sau Hiệp định Geneve, tổ chức quyết định bố trí ông theo chân chính quyền Pháp vào Nam, tiếp tục bám địch và thu thập tin tình báo chiến lược.

Một ngày nọ, một vị lãnh đạo cấp cao của ngành tình báo đã đến gặp riêng bà Thanh, truyền đạt một chỉ thị tối mật: Tổ chức cần làm một "đám cưới giả" cho ông Đặng Trần Đức để hợp thức hóa thân phận trước khi ông nhận nhiệm vụ vào Nam. Tổ chức trân trọng yêu cầu xin ý kiến bà, nếu bà đồng ý thì mới làm đám cưới đó.

Tin ấy như nhát dao cứa vào lòng bà Thanh, bà im lặng rồi thấu hiểu. Giữa tình riêng và nhiệm vụ cách mạng, người vợ chiến sĩ đã tự tay ký vào “bản hiệp định” nghiệt ngã của đời mình.

Bà Giang giọng trầm ngâm hồi tưởng: “Mẹ tôi từng kể rằng, bà đã trăn trở mấy ngày mới đưa ra quyết định đồng thuận. Bà nói với ông: “Bây giờ, cách mạng yêu cầu thì anh cứ đi, cứ kết hôn, em có cấm cũng không được. Anh đi mà không có lý lịch mới, anh sẽ sớm hy sinh”.

Mẹ tôi đã thấu hiểu và chấp nhận hy sinh tình cảm riêng để chồng hoàn thành nhiệm vụ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn cảm phục bà, bởi trong hoàn cảnh ấy, mấy ai hành xử bản lĩnh, cao cả và không một lời oán than”.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng từng kể lại câu chuyện khi ông Ba lấy vợ thứ 2.

Theo tướng Vịnh, ông Trần Hiệu đã trao đổi và xin ý kiến bà Thanh, nhấn mạnh rằng lúc này, ông Ba cần một danh nghĩa vợ để hoạt động tại Sài Gòn.

Bà Thanh viết một tờ giấy ngắn gọn nhưng chứa đựng lời thề son sắt, thể hiện tinh thần kiên cường của một người vợ cách mạng: “Tôi đồng ý cho chồng đi lấy vợ mới để phục vụ hoạt động. Tôi chỉ có một điều kiện là khi thống nhất đất nước và có độc lập rồi thì trả chồng tôi về với tôi".

Thời điểm đó, bà Thanh tin rằng chậm nhất đến cuối năm 1956 - khi Tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneve diễn ra - ông Ba Quốc sẽ trở về. Nhưng bà không ngờ lời hẹn ấy lại mở đầu cho quãng “lao đao cả đời”, khi cuộc chia ly kéo dài suốt 21 năm.

“Lúc bố tôi đi, mẹ tôi đang mang thai em trai. Cụ hứa 2 năm sẽ về, nhưng phải đến 21 năm sau mới gặp lại. Mỗi lần bố có dịp ra Bắc, tôi cũng chỉ kịp nhìn thấy bóng lưng ông”, bà Giang nghẹn ngào kể với phóng viên Dân trí.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 6

Tướng tình báo Đặng Trần Đức (giữa), tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn (bên phải) và tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ - những người hoạt động trong lòng địch thời kỳ chống Mỹ.

Và cứ thế… suốt hơn 2 thập kỷ ấy, vỏ bọc của tướng tình báo Ba Quốc ở Sài Gòn càng hoàn hảo bao nhiêu thì cuộc đời của bà Thanh ở miền Bắc càng khắc nghiệt bấy nhiêu.

Để giữ bí mật tuyệt đối, bà Thanh chỉ nói với các con rằng bố đi “học lái tàu ở Trung Quốc”. Bà dặn các con chụp một tấm ảnh ba mẹ con “gửi sang cho bố”, nhưng thực ra, bức ảnh ấy được bà gửi vào Sài Gòn - về đơn vị của ông Ba Quốc.

Những lá thư, những bức ảnh, những địa chỉ giả mạo - tất cả là lớp áo ngụy trang cho người điệp viên - đang ẩn mình giữa lòng địch.

Bà Đặng Thị Chính Giang nhớ lại, khi bố "vào Nam theo địch", mẹ bà - bà Phạm Thị Thanh - đang có công việc ổn định tại Nhà máy in Tiến Bộ, bỗng bị điều lên vùng rừng núi Nông trường chè Vân Lĩnh, Thanh Ba, Phú Thọ.

Vì mang tiếng "có chồng phản bội", bà Thanh buộc phải rời Thủ đô, cùng 2 con thơ gánh chịu những năm tháng gian khó và nỗi oan ức tột cùng nơi đồi chè, rừng cọ.

Những ngày tháng ở nông trường, mẹ bà Giang chỉ nhận 34-35 đồng lương mỗi tháng, để gồng gánh cả gia đình (bao gồm cả bà ngoại, sau này là bố mẹ chồng), những người không có khẩu, không có chế độ.

Cả nhà chỉ được tiêu chuẩn 10kg gạo mỗi tháng, phần còn lại phải trồng thêm khoai, sắn để ăn kèm. Bà Giang không sao quên được, mỗi bữa mẹ bà luộc một nồi sắn để ăn trước, rồi mới đến nồi cơm độn dành cho người già và trẻ nhỏ.

Bát cơm chan đầy nước mắt, nhưng với trẻ con hồn nhiên như bà và em trai Đặng Trần Thành, mọi chuyện chưa thực sự thấm thía.

Thế nhưng, nỗi khổ lớn nhất không phải cái đói, mà là gánh nặng tinh thần từ những lời đồn đoán và sự kỳ thị. Trong ký ức của bà Giang, chị em bà là những đứa trẻ thiệt thòi nhất.

Đi học chỉ có mẹ đưa đón, vắng bóng cha, chị em bà Giang bị bạn bè xa lánh, thầy cô phân biệt. Có lần, tủi thân đến bật khóc, bà hỏi mẹ: “Có đúng bố theo giặc vào Nam nên con mới bị đối xử như vậy? Con không được phân mua sách giáo khoa, vậy con thuộc thành phần nào?”.

Bà Thanh lúc đó nhẹ nhàng đáp con gái: “Bố con không phản quốc, con cứ tin là như vậy”.

Khi phóng viên Dân trí hỏi: “Đã từng thấy mẹ khóc trong những năm tháng xa chồng và phải một mình gồng gánh gia đình chưa?”, bà Giang tâm sự: “Mẹ tôi chưa bao giờ khóc. Chừng ấy năm, dù khốn cùng hay khi bệnh nặng, bà nuốt mọi tủi nhục vào lòng để người thân yên lòng”.

Dẫu cuộc sống thiếu thốn và đầy rẫy lời dị nghị, bà Thanh vẫn lặng lẽ chịu đựng, tìm mọi cách để các con không bị thiệt thòi. Mỗi lần có thể liên lạc với chồng, bà chỉ nhắn: “Anh cứ yên tâm công tác, đừng lo cho mẹ con em”.

Mãi sau này, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - người hiểu rõ những hy sinh thầm lặng đó - đã hỏi bà Thanh: “Cuộc sống khổ như thế, cô có buồn hay oán trách chú Ba không?”.

Bà Thanh đáp giản dị nhưng thấm thía, chứa đựng cả lòng bao dung của người phụ nữ dành trọn đời cho cách mạng: “Buồn chứ, giận chứ, sao không giận được… nhưng tôi chịu khổ, khổ thế chứ khổ nữa tôi vẫn chịu được, miễn là ông Ba an toàn để trở về”.

Chính sự hy sinh không lời ấy, như tướng Vịnh từng nhận định, là “món nợ” lớn nhất mà tướng Ba Quốc mang theo. Bà Thanh đã gìn giữ sự an toàn tinh thần cho chồng bằng cả danh dự và tuổi thanh xuân của mình.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 7

Bà Phạm Thị Thanh cùng các con trong thời gian sống tại Nông trường chè xã Vân Lĩnh, Thanh Ba, Phú Thọ.

Người giữ “vỏ bọc” cuối cùng cho vị tướng tình báo

Trong khi ở miền Bắc, bà Phạm Thị Thanh âm thầm chịu đựng tủi nhục và nghi kỵ, thì tại miền Nam, bà Ngô Thị Xuân cùng các con lại lặng lẽ che chở cho người chồng - người cha đang hoạt động ngay trong cơ quan đầu não của địch.

Để xây dựng một vỏ bọc vững chắc, tổ chức bố trí để Thiếu tướng Đặng Trần Đức kết hôn với bà Xuân - con gái ông Đàm Y - một công chức có quan hệ rộng trong giới đương thời.

Vẻ nền nã, khéo léo của bà, cùng thân phận “không dính dáng cách mạng”, đã giúp ông Ba Quốc hoàn thiện vỏ bọc sĩ quan cảnh sát quốc gia tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Sài Gòn.

Ban đầu, bà Xuân không hề biết chồng là sĩ quan tình báo. Nhưng sống bên nhau, bà dần nhận ra những điều bất thường: Những chuyến đi về thất thường, những đêm ông lặng lẽ làm việc dưới gầm cầu thang, hay những phong bì tiền được giấu rất kỹ.

Không hỏi, không thắc mắc, bà lặng lẽ quan sát và âm thầm gánh phần hậu phương.

Dù ông Ba phải trích gần hết lương nuôi cơ sở bí mật, bà vẫn tần tảo nuôi 4 con giữa cảnh thiếu trước hụt sau. Luôn sống trong cảnh “lưỡi gươm treo lơ lửng trên đầu”, bà chuẩn bị sẵn một bao gạo và phong bì tiền nhỏ, phòng khi vợ chồng bị bắt, các con vẫn có cái ăn trong những ngày đầu.

Năm 1974, khi đường dây tình báo bị lộ và ông Ba phải rút ra căn cứ, bà Xuân và các con bị bắt, trải qua 4 tháng thẩm vấn khốc liệt, nhưng vẫn giữ nguyên kịch bản mà ông chuẩn bị, không ai khai nửa lời.

Đặc biệt, ông Vũ (con trai của ông Ba Quốc với bà Xuân) từng giúp cha chụp tài liệu mật - dù bị tra khảo - vẫn khẳng định: “Bố bảo chụp thì tôi chụp, còn để làm gì tôi không biết”.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh từng nhận định rằng, ông Ba Quốc làm việc trong lòng địch mấy chục năm không bị lộ là nhờ một người vợ biết im lặng.

Bà Xuân không hỏi, không than, chỉ âm thầm để ông hoạt động. Họ sống như vậy suốt 20 năm. Theo Tướng Vịnh, đó là sự vĩ đại.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 8

Vợ chồng ông Đặng Trần Đức, bà Ngô Thị Xuân và các cháu tại TPHCM (Ảnh: Tư liệu).

Nhờ sự bình tĩnh và gan dạ ấy, mạng lưới tình báo được giữ trọn cho đến ngày Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Đầu năm 1975, mẹ con bà được trả tự do - chỉ ít tháng trước đại thắng.

Từ những câu chuyện đó, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cho rằng, tướng Ba Quốc là người vô cùng may mắn khi có hai người vợ - hai hậu phương đặc biệt: Bà Thanh chịu đựng chia ly, thiếu thốn và tiếng dị nghị để giữ bí mật; còn bà Xuân âm thầm chấp nhận sống bên một người luôn “ẩn mình”, và khi bị bắt vẫn một lòng không khai báo.

“Chúng ta phải nhìn thấy sự vĩ đại của cả hai người phụ nữ trong cuộc đời ông Ba Quốc. Nếu không, dễ khiến người ta nghĩ bà vợ miền Nam chỉ là “sản phẩm nghiệp vụ”, lấy để hợp thức hóa vỏ bọc và sinh con làm bình phong.

Thứ nhất, bà ấy chịu để ông làm bình phong. Thứ hai, bà ấy im lặng suốt 20 năm, để ông thực hiện một nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm.

Và thứ ba, khi bị địch bắt, bà vẫn không khai nửa lời”, ông Vịnh nói và nhấn mạnh sự kiên định, lòng dũng cảm phi thường của bà Xuân.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 9

Bức ảnh chụp vợ chồng ông Đặng Trần Đức, bà Ngô Thị Xuân cùng các con cháu trong lễ mừng thọ ông tròn 80 tuổi tại TPHCM.

Cuộc gặp của hai người vợ

Sáng 30/4/1975, giữa lúc cả nước hân hoan trong niềm vui thống nhất, gia đình bà Phạm Thị Thanh ở Đông Anh (Hà Nội) nhận tin từ em trai ông Ba Quốc: “Anh cả ra rồi!”. Người chồng, người cha đã biệt tăm suốt 21 năm, nay trở về. Bà Thanh chạy vội sang nhà bố chồng, vừa chạy vừa khóc.

Người cha già cũng bật khóc nức nở, giáng những cái tát lên vai con trai, không phải vì giận mà bởi nỗi đau 2 thập kỷ chờ đợi trong tuyệt vọng, tưởng con mình đã không còn.

Trong ký ức cô con gái Chính Giang khi đó, người cha trở về là một người đàn ông xa lạ, nghiêm khắc, dáng gầy gò, da đen sạm, đôi mắt nhuốm màu sinh tử. Phải đến năm 1977, tình cảm cha con mới dần được hàn gắn.

Còn niềm hạnh phúc đoàn tụ của bà Thanh không trọn vẹn. Bà lặng người khi biết chồng đã có 4 người con với bà Ngô Thị Xuân trong thời gian hoạt động đơn tuyến ở miền Nam. Khi ông Ba Quốc hỏi: “Hơn 20 năm qua, em và các con đã sống thế nào?”, bà chỉ nghẹn ngào, nói không thể kể hết.

Hơn 7.000 ngày sống giữa rừng núi, chịu đựng đói rét, tiếng đời dị nghị, bà đã nén vào lòng để chồng yên tâm làm nhiệm vụ.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 10

Ông Ba Quốc bên gia đình người vợ ngoài Bắc đoàn tụ (Ảnh: Nhân vật cung cấp).

Về nhà chưa đầy 2 ngày, ông Ba Quốc lại nhận lệnh trở vào Nam, trực tiếp tiếp quản Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, rồi tham chiến ở biên giới Tây Nam.

Bà Thanh lại bắt đầu chuỗi ngày chờ đợi mới, kéo dài thêm nhiều năm sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ.

Về phía bà Xuân, sau khi được trả tự do, bà ra Hà Nội, tìm đến nhà bà Thanh và xin ngủ lại một đêm.

Dưới ánh đèn dầu leo lắt, hai người phụ nữ ngồi cạnh nhau, nói chuyện cho đến khuya. Họ không trách hờn cũng chẳng ghen tuông. Bà Thanh nắm tay người phụ nữ đã đồng hành cùng chồng mình trong những năm tháng hiểm nguy, hỏi han; bà Xuân chỉ mỉm cười, khẽ nói: “Còn sống là mừng rồi”.

Cả hai cùng khóc, để lại trong ký ức cô con gái Chính Giang hình ảnh tình thương sâu sắc, mãnh liệt hơn cả ghen tuông.

Các con của vị tướng tình báo cũng trân trọng cả hai: Con ở miền Nam gọi bà Thanh là “mẹ Thanh”, con ở miền Bắc vẫn gọi bà Xuân là “mợ Xuân”.

Năm 1982, một biến cố xảy ra: Bà Thanh bị thương nặng, gãy cột sống và liệt hai chân. Ông Ba Quốc từ miền Nam trở ra túc trực chăm sóc, lo thuốc men, nấu cháo, dìu vợ tập đi từng bước. Ông nói: “Ngày xưa bà gánh tôi qua chiến tranh, giờ đến lượt tôi gánh bà qua tuổi già”.

Khi nghỉ hưu năm 1993, hai người mới thật sự sống bên nhau, giản dị nhưng ấm áp. Những năm cuối đời, bà Thanh yếu dần, mắt mờ, ông luôn bên cạnh.

“Bố tôi khóc rất nhiều - một người vốn lạnh lùng, trầm lặng, nhưng khi tiễn mẹ - ông khóc như một đứa trẻ”, bà Giang kể, đôi mắt đỏ hoe.

Chuyện về 2 bà vợ của tướng tình báo bí ẩn nhất Việt Nam - Ba Quốc - 11

Bà Đặng Thị Chính Giang: "Cả hai người phụ nữ ấy đều là anh hùng - chỉ khác là họ không đứng trong hàng ngũ - mà đứng sau lưng người lính”.

Ông Ba Quốc sống thêm vài năm, qua đời không lâu sau đó. Bà Xuân cũng mất năm 2006.

“Nếu hỏi tôi ai đáng khâm phục nhất, tôi sẽ nói mẹ. Bố sống vì Tổ quốc, mẹ sống vì gia đình.

Hai con đường khác nhau nhưng cùng hướng về một điều lớn lao: Niềm tin tuyệt đối vào cách mạng và vào nhau.

Không có mẹ Thanh, bố tôi không thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ; nếu không có mợ Xuân, ông cũng khó tồn tại trong lòng địch suốt hơn 2 thập kỷ. Cả hai người phụ nữ ấy đều là anh hùng - chỉ khác là họ không đứng trong hàng ngũ - mà đứng sau lưng người lính”, bà Giang bộc bạch.

Trong các dịp giỗ chạp của bố mẹ, nếu không vướng công tác, các con của ông Ba Quốc cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều cố gắng về đông đủ.

Một số đã nghỉ hưu nên 2 năm thu xếp một lần; những người đang công tác hầu như năm nào cũng cố gắng có mặt. Con gái bà Xuân lấy chồng ngoài Bắc; một số anh chị em tuổi cao, sức khỏe yếu chỉ ra được khi điều kiện cho phép.

* Bài viết có sử dụng thêm tư liệu, hình ảnh từ:

Sách Ông tướng tình báo bí ẩn và những điệp vụ siêu hạng của hai tác giả Hoàng Hải Vân và Tấn Tú.

Phim tài liệu Nhà tình báo Đặng Trần Đức (Media24 sản xuất, phát sóng tháng 3 năm 2025).

Ảnh: Nguyễn Hà Nam