Những hướng đi cấp bách chuẩn bị đội ngũ cán bộ tinh hoa phục vụ đất nước
(Dân trí) - Sau giải phóng miền Nam, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để xây dựng nhà nước thống nhất. Trọng trách được giao cho ngành nội vụ.

Phát triển năng lực cán bộ là mục tiêu tiên quyết
Theo tư liệu được ghi chép trong cuốn “Lịch sử Bộ Nội vụ”, thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mùa Xuân năm 1975 mở ra thời kỳ mới cho lịch sử Việt Nam, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cho đến những năm cuối thập niên 1970, tình hình quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp. Không chỉ đối mặt với những khó khăn về kinh tế, an sinh - xã hội, giao thông vận tải… đất nước còn đứng trước thách thức về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.

Thanh niên quận 3, TPHCM mít tinh kỷ niệm 85 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1975) (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN).
Trong đó, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ ngành tổ chức còn yếu, đặc biệt là các tỉnh phía Nam, dẫn đến sự lẫn lộn giữa quản lý hành chính với sự nghiệp, giữa quản lý nhà nước với sản xuất, kinh doanh, khiến công tác kế hoạch hóa biên chế, tiền lương còn nhiều bất hợp lý chưa được giải quyết.
Đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, Đảng và nhà nước xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và trong sạch và một trong những yêu cầu cấp bách của cách mạng.
“Nếu không kiên quyết đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ thì không một chủ trương chính sách nào có thể thực hiện được tốt; nếu không lập lại trật tự kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước thì không đủ sức mạnh để lập lại trật tự kỷ cương trong xã hội. Vì thế, vấn đề đổi mới, nâng cao năng lực cán bộ, công chức nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng cấp bách trong thời kỳ chuẩn bị xây dựng một nhà nước thống nhất”, nguyên văn tư liệu cho biết.
Những hướng đi cấp bách và kịp thời
Sau thống nhất đất nước, Bộ Nội vụ (lúc bấy giờ là Ban tổ chức của Chính phủ) ngay lập tức xác định những giải pháp đầu tiên để nhanh chóng ổn định, nâng cao chất lượng năng lực đội ngũ cán bộ công chức, viên chức.
Trước hết, Bộ phối hợp với các đơn vị điều động gấp cán bộ từ các ngành và các địa phương ở phía Bắc cho TPHCM là 964 người (năm 1976) và các tỉnh phía Nam là 35.163 người (năm 1977).
Trong các năm 1978 và năm 1980, hơn 40 cán bộ của các Ban Tổ chức chính quyền các tỉnh phía Bắc được biệt phái vào giúp các tỉnh phía Nam kiện toàn bộ máy quản lý, kiện toàn chính quyền địa phương về nghiệp vụ công tác tổ chức, biên chế, tiền lương và bồi dưỡng nghiệp vụ.

Người dân TPHCM năm 1981 (Ảnh: Nguyễn Quang).
Những cán bộ hầu hết có chuyên môn kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ cũng được điều động đến hỗ trợ cho các vùng trọng điểm như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh biên giới phía Bắc.
Ngay trong giai đoạn này, Bộ nhanh chóng tiến hành rà soát tình hình đội ngũ cán bộ các cấp, đồng thời tiến hành đẩy mạnh công tác xây dựng chức danh đầy đủ và tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nhà nước.
Trên cơ sở đó, các Bộ, Tổng cục đã thấy rõ hơn những mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ cán bộ, từ đó thúc đẩy việc nhiều cán bộ bắt đầu được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng thêm những nghiệp vụ cần thiết.
Cùng với việc tinh giản biên chế, Bộ đã tư vấn, hướng dẫn nhiều ngành, địa phương ban hành những chính sách để hạn chế việc tuyển dụng người vào khu vực nhà nước; ngăn ngừa việc tuyển dụng những người không có chuyên môn nghiệp vụ; tập trung chủ yếu điều chuyển nội bộ trong các ngành, các đơn vị từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Trong mạch điều chỉnh, năm 1991, Nghị định số 169 được ban hành, chính thức đưa ra khái niệm cụ thể về công chức, tạo tiền đề cho bước tiến mới về quản lý đội ngũ và xây dựng lực lượng công chức chức nghiệp trong nhà nước pháp quyền.
Không lâu sau, Nghị quyết số 109 được thông qua, nêu rõ những công chức tiếp tục làm việc trong biên chế hành chính được bố trí vào ngạch bậc cho phù hợp với trình độ, năng lực cụ thể từng người; những người không đủ năng lực làm việc được chuyển đến các cơ quan khác, khi chuyển đi được hưởng một số ưu đãi nhất định; cơ quan hành chính sự nghiệp khi tuyển chọn người mới phải theo đúng quy chế thi tuyển; việc chuyển ngạch, chuyển bậc phải qua đánh giá trình độ năng lực theo yêu cầu tiêu chuẩn của từng ngạch.
Đây là dấu mốc mở đầu cho chế độ lựa chọn sắp xếp và tuyển dụng công chức theo quy chế thi tuyển, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển công chức sau này.
Để từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, Bộ đã nỗ lực nghiên cứu, đề xuất thành lập lại Trường Hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trừ TP Hà Nội), liên tục đẩy mạnh tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ trên khắp cả nước.
Tính riêng năm 1991, dựa vào trường Quản lý Nhà nước Hà Nội và Trường Hành chính TPHCM, Bộ Nội vụ đã mở được 11 lớp đào tạo, với số học viên là 1.136 người.
Thúc đẩy phong trào học tập suốt đời
Sau những nỗ lực trong công tác nâng cao năng lực cho đội ngũ, Bộ Nội vụ bắt đầu ghi nhận sự gia tăng về số lượng, chất lượng, trình độ, thâm niên và kinh nghiệm công tác của cán bộ trong tổ chức.
Số người có trình độ đại học, trên đại học chiếm tỷ lệ cao; các cá nhân đều có tư tưởng chính trị vững vàng; tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, tự giác ngày càng nâng cao.
Từ hiệu quả của cuộc cải cách công vụ, những năm đầu thập niên 90, Bộ Nội vụ quyết định đưa tiêu chuẩn trình độ đào tạo vào tiêu chuẩn ngạch công chức và phải được xem xét khi xét chuyển ngạch, thi nâng ngạch. Điều đó đã khơi dậy trong các công sở phong trào chủ động học tập, phấn đấu đạt chuẩn của ngạch của cán bộ, công chức nhà nước.

Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm (Hà Nội), ngày 27/8/2000 (Ảnh: Anh Tôn/TTXVN).
Trong giai đoạn này, hệ thống đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức hoạt động khá sôi nổi khi có hàng trăm cơ sở triển khai hàng nghìn lớp cho hàng trăm nghìn cán bộ.
Càng về sau, công tác đào tạo bồi dưỡng ngày càng chú trọng các kiến thức kỹ năng hành chính và phương thức quản lý nhà nước, đồng thời bổ sung chương trình ngoại ngữ, tin học giúp cho công chức ứng dụng vào công việc hằng ngày.
Thời kỳ 1994–2002, số lớp triển khai đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức đã tăng lên nhiều so với trước đó. Hơn hết, điều này đã hình thành nền nếp học tập đối với cán bộ, công chức, tiến tới hình thành quy chế học tập bắt buộc với những người thực thi công vụ.
Giai đoạn 2001-2003, tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng của 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 52/60 đầu mối Bộ, ngành Trung ương là hơn 1,2 triệu lượt người.
Trong năm 2003 và năm 2004, Bộ Nội vụ còn cử hàng trăm cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, trong đó có cán bộ lãnh đạo cấp vụ được tham gia khảo sát, học tập về cải cách hành chính, công chức, công vụ.