Kìm đà phình bộ máy nhà nước, bài học từ quyết sách thời chống Mỹ
(Dân trí) - Miền Bắc hòa bình, bộ máy hành chính lập mới, kiện toàn nhanh khiến biên chế vọt tăng. Trước nguy cơ “phình to” bộ máy, Bộ Nội vụ chủ trương không tuyển mới, kèm 17 biện pháp chấn chỉnh.

Biên chế tăng mạnh sau 1954
Tư liệu được ghi ghép trong cuốn "Lịch sử Bộ Nội vụ" thể hiện, sau khi tiếp quản và khôi phục miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thực hiện đồng thời hai việc: kiện toàn cơ quan cũ và lập mới nhiều đầu mối để đáp ứng nhiệm vụ quản lý nhà nước trong bối cảnh kiến thiết.
Danh mục các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ thời kỳ này trải rộng: Nha Liên lạc Chính phủ, Ban Thể dục Thể thao Trung ương, Cục Vật tư, Ủy ban Kế hoạch, Ban Thanh tra Trung ương, Ban Dân tộc…; bên cạnh đó là các tổ chức mang tính chính trị, xã hội, sự nghiệp như Việt Nam Thông tấn xã, Đài Phát thanh, Ban Quan hệ Bắc - Nam, Ban Giao thương quốc tế, Cục Chuyên gia, Nha Khí tượng Thủy văn, Trường Đại học Nhân dân…
Tổng số cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ lên tới con số 20, tạo áp lực nhân lực lớn cho khối hành chính nhà nước.

Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội Trần Duy Hưng từ Việt Bắc về tiếp quản thủ đô năm 1954 (Ảnh: Tư liệu).
Hệ quả thể hiện ngay trong số liệu do Bộ Nội vụ tập hợp. Năm 1955, biên chế cơ quan hành chính tăng gấp đôi so với 1954. 9 tháng đầu năm 1956, bình quân mỗi tháng tăng gần 1.100 người. Tới tháng 9/1956, biên chế các cơ quan dân, chính, Đảng từ Trung ương đến địa phương đã vượt 100.000 người. Nếu cộng gần 27.000 cán bộ tham gia cải cách ruộng đất và xây dựng các khu tự trị, tổng số xấp xỉ 135.000 người.
Báo cáo chính thức nhận định "biên chế tăng nhanh vượt quá mức tỷ lệ trung bình so với dân số". Đây là một cảnh báo sớm của Bộ quản lý biên chế về nguy cơ phình to bộ máy.
"Nút phanh" năm 1957: 17 biện pháp chấn chỉnh
Đầu năm 1957, Bộ Nội vụ đề xuất và triển khai phương châm "không tuyển thêm người", coi đây là nút phanh trước tiên để cắt đà tăng cơ học với bộ máy. Chủ trương đi kèm là giảm hợp lý biên chế hành chính, tăng cường đúng mức biên chế sự nghiệp, điều chỉnh nơi thừa sang nơi thiếu và sửa đổi lề lối làm việc.
Quan trọng hơn, Bộ Nội vụ cụ thể hóa chủ trương chung bằng 17 biện pháp. Các giải pháp nổi bật gồm: rút bớt cán bộ từ các đoàn cải cách ruộng đất, các đoàn đi xây dựng khu tự trị; giảm quân ở một số đầu mối như đồn công an, cán bộ hộ khẩu, giảm biên chế cấp khu; chuyển các đơn vị hoạt động văn hóa, kỹ thuật sang doanh nghiệp; ngăn chặn "chiếu cố người nhà" trong tuyển dụng. Nhóm biện pháp này cùng hướng tới mục tiêu thu gọn khối hành chính, đưa nhân lực về đúng "mặt trận" cần thiết và siết chặt chuẩn mực tuyển dụng.
Ngay trong năm 1957, Bộ yêu cầu lập thống kê tăng/giảm biên chế của từng cơ quan, tạo nền dữ liệu phục vụ theo dõi sát và ra quyết định kịp thời. Đây là thay đổi đáng chú ý, là dấu mốc chuyển từ quản lý theo cảm tính sang quản lý bằng số liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng, Nhà nước với đại biểu dự Đại hội tuyên dương Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quân lần thứ 3, ngày 7/5/1956 (Ảnh: Tư liệu/TTXVN).
2 năm nỗ lực cơ cấu lại nguồn lực
Tinh giản biên chế không được thực hiện như một cuộc "cắt ngang", mà kết hợp điều chỉnh, phân bổ lại theo nhu cầu phát triển.
Trong số hơn 22.000 cán bộ, công nhân viên bổ sung cho cơ quan Trung ương giai đoạn này, hơn 70% được đưa về khối kinh tế - tài chính và văn hóa; học sinh tốt nghiệp được phân phối cho kiến thiết cơ bản, cơ sở sản xuất và cơ sở sự nghiệp; địa phương cũng được bổ sung thêm 12.750 người để đáp ứng công việc.
Khi giải thể cấp khu, một số cán bộ nòng cốt ở Trung ương và bộ đội chuyển ngành được điều động tăng cường cho địa phương, phục vụ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa (nổi bật là hợp tác hóa nông nghiệp).
Riêng các tỉnh miền núi được bổ sung hơn 3.000 cán bộ chính trị sơ cấp và cơ sở cùng hàng nghìn cán bộ chuyên môn kỹ thuật. Những điều chỉnh này cho thấy trục ưu tiên: đưa người về nơi cần và đưa đúng người về đúng việc.
Cũng trong mạch điều chỉnh, năm 1958 Bộ điều động bổ sung 11.988 cán bộ cho Trung ương và địa phương; đồng thời chuyển một số đông cán bộ thuộc biên chế hành chính sang mặt trận sản xuất.
Bước sang năm 1959, tổng nhu cầu 23.764 người nhưng chỉ đáp ứng 16.597, chủ yếu nhờ điều chỉnh giữa các ngành, một phần qua tuyển dụng mới và tiếp nhận tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp. Điều này cho thấy nguyên tắc tiết chế tuyển dụng đã phát huy: ưu tiên điều chuyển và phân bổ lại trước khi tính đến bổ sung mới.
3 năm chỉ tăng 1.060 biên chế
Đến 1961, số liệu cho thấy đà tăng biên chế đã được kìm hãm rõ rệt. Mặc dù tổ chức phát triển, tổng số biên chế hành chính chỉ tăng 1.060 người. Cùng thời điểm, Bộ Nội vụ công bố bức tranh quy mô và cơ cấu khá đầy đủ: 48.104 cán bộ khu vực hành chính - sự nghiệp ở Trung ương (6 tháng đầu năm 1961) với cơ cấu theo khối; 140.058 người ở địa phương, kèm theo thống kê giới tính, dân tộc, nguồn chuyển ngành… Những dữ liệu này vừa phản ánh kết quả chấn chỉnh, vừa là đầu vào cho điều hành biên chế theo mục tiêu thay vì chạy theo phát sinh.
Không chỉ "giảm tốc" tổng số, công tác xét duyệt biên chế đem lại hiệu quả cụ thể: rút được 20.000 người; đồng thời bớt hơn 4.000 biên chế hành chính để dành cho các tổ chức mới - một dạng tái phân bổ nội bộ hệ thống.
Từ nền tảng này, Bộ chuyển sang quản lý theo kế hoạch - dự án. Năm 1962, Bộ xây dựng và hướng dẫn lập dự án biên chế, khắc phục tình trạng giao chỉ tiêu thiếu cơ sở. Năm 1963, Bộ trình kế hoạch với 171.900 biên chế trong các cơ quan dân, chính, Đảng từ Trung ương đến địa phương (trong đó 67.900 thuộc phần quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể; 104.000 thuộc phần sự nghiệp). Việc lập - thẩm định - phê duyệt kế hoạch giúp chủ động kiểm soát tăng trưởng, thay vì bị động đáp ứng nhu cầu phát sinh.

Hồ Gươm năm 1954 (Ảnh: Tư liệu).
Đòn bẩy hỗ trợ công cuộc tinh giản bộ máy
Tinh giản biên chế thời kỳ này không đứng một mình. Quản trị bằng dữ liệu được duy trì và mở rộng: Bộ yêu cầu các cơ quan lập sổ theo dõi tăng - giảm, phân tích biên chế theo cấp tỉnh, cấp huyện, so sánh tỷ trọng và tốc độ phát triển giữa khu vực hành chính và khu vực kinh tế - sự nghiệp, qua đó khắc phục dần chênh lệch giữa địa phương.
Về điều động - phân bổ, đầu năm 1961 các nhu cầu bổ sung nhân lực ở bộ, ngành được xử lý không chỉ bằng tuyển mới mà bằng điều chuyển (739 cán bộ), phân phối sinh viên tốt nghiệp, Việt kiều, bộ đội chuyển ngành (934 cán bộ) và tuyển dụng có điều kiện trong số phụ động, hợp đồng lâu năm (512 cán bộ). Phần còn lại, các cơ quan tự sắp xếp lại tổ chức và lề lối làm việc – một thông điệp rõ ràng về tiết kiệm biên chế.
Song hành với "giảm số", Bộ cũng giữ chất lượng và động lực của đội ngũ bằng hệ thống chế độ lương - phụ cấp. Giai đoạn 1958-1960, Bộ hướng dẫn Nghị định 270-TTg (31/5/1958) về chế độ lương khu vực hành chính - sự nghiệp; Thông tư 46-NV-CB (3/7/1958) sắp xếp cấp bậc; Thông tư 16-NV-CB (17/3/1960) giải quyết chế độ cho nhóm hợp đồng, tạm tuyển; cùng các nghị định 24/CP, 25/CP (7/1960) về lương khu vực sản xuất và hành chính – sự nghiệp. Mục tiêu xuyên suốt: giảm tính bình quân, tiến tới phân phối theo lao động, cải thiện đời sống để giữ ổn định đội ngũ trong khi cơ cấu lại.
Trong mạch tinh giản, nhiều cơ quan bỏ bớt phòng trung gian không cần thiết - bước chuẩn bị tổ chức quan trọng trước thời kỳ sơ tán chống chiến tranh phá hoại. Trong 31 bộ, 764/1.375 phòng (giảm hơn 50,5%) được cắt gọn; đánh giá cho thấy bộ máy gọn hơn, chỉ đạo của thủ trưởng Vụ, Cục, Viện tập trung, sát người - sát việc - sát cơ sở, tinh thần trách nhiệm và lề lối làm việc đều chuyển biến. Đây là minh chứng rằng tinh giản không chỉ là bớt người, mà còn là sắp xếp lại tầng nấc cho mạch vận hành thông suốt.