Hậu trường cuộc di tản bộ máy nhà nước buổi đầu lập quốc
(Dân trí) - Những ngày đầu độc lập, bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ buộc phải rút khỏi Thủ đô. Đằng sau cuộc di tản ấy là nỗ lực tổ chức quy mô lớn, với vai trò nòng cốt của Bộ Nội vụ.

Hành trình di tản trong lòng kháng chiến
Sau ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa tuyên bố độc lập chưa đầy bốn tháng thì lại đối mặt nguy cơ chiến tranh khi thực dân Pháp tái xâm lược. Tình hình chính trị - quân sự tại miền Bắc ngày càng căng thẳng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nhận định, nếu chiến tranh nổ ra, bộ máy chính quyền phải được bảo toàn. Vì vậy, ngay từ cuối năm 1946, một kế hoạch di tản chiến lược được chuẩn bị. Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ là hai cơ quan chủ lực tham mưu và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Theo đó, trong trường hợp xung đột vũ trang xảy ra, các cơ quan Trung ương sẽ lần lượt rút khỏi Hà Nội về Hà Đông, Sơn Tây, sau đó tiếp tục tiến lên căn cứ Việt Bắc. Việc di chuyển không chỉ đơn thuần là "rút lui" mà là một sự chuyển trục chiến lược, bảo toàn lực lượng, xây dựng trung tâm chỉ đạo mới ở vùng căn cứ.
Khi lệnh Toàn quốc kháng chiến được phát động đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan đầu não đã rút khỏi Hà Nội. Lộ trình sơ tán diễn ra bí mật, chặt chẽ, qua nhiều điểm trung chuyển như Vạn Phúc, Quốc Oai, Thạch Thất, Xuân Mai... Trên mỗi chặng đường, Bộ Nội vụ phối hợp với các lực lượng địa phương tổ chức tiếp tế, bảo vệ và đảm bảo thông tin liên lạc.

Phát lệnh toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, tháng 12/1946. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN).
Đến tháng 3/1947, toàn bộ các cơ quan Trung ương đã ổn định tại vùng ATK (An toàn khu) Việt Bắc. Nơi đây trở thành "Thủ đô kháng chiến" của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong suốt 9 năm sau đó.
Trong hành trình ấy, Bộ Nội vụ đảm nhiệm vai trò tổng chỉ huy công tác hậu cần, tổ chức di chuyển hàng nghìn lượt cán bộ, cùng với tài liệu, thiết bị, kho tàng và cả tiền bạc, muối, lương thực, quân trang.
Đơn vị tổ chức chiến dịch tản cư quy mô chưa từng có
Theo tư liệu từ cuốn "Lịch sử Bộ Nội vụ", song song với việc sơ tán các cơ quan Trung ương, Bộ Nội vụ được Chính phủ giao tổ chức cuộc tản cư chiến lược của hàng triệu người dân, cán bộ, chiến sĩ. Đây là nhiệm vụ mang tính sinh tử cho sự tồn tại của lực lượng cách mạng - vừa nhằm tránh thương vong, vừa bảo toàn tiềm lực kháng chiến lâu dài.
Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 31/12/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 5/SL thành lập Ủy ban tản cư - di cư Trung ương, do Bộ Nội vụ phụ trách về mặt chính quyền. Chủ tịch Ủy ban là cụ Bùi Bằng Đoàn, các thành viên là nhân sĩ danh tiếng như Nguyễn Văn Tố, Phan Anh... Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam là người được Chính phủ trực tiếp giao tổ chức toàn bộ chiến dịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp biên soạn tài liệu hướng dẫn công tác tản cư, chỉ rõ nguyên tắc: "Tản cư cũng tham gia kháng chiến!". Người yêu cầu các cấp thành lập Ủy ban tản cư từ xã đến kỳ, chọn người có uy tín làm chủ nhiệm, vận động dân chúng hiểu rõ chủ trương của Chính phủ và chủ động tăng gia sản xuất ngay tại nơi sơ tán.

Quân và dân Thủ đô lập chướng ngại vật trên đường phố, sẵn sàng chiến đấu cản bước tiến của địch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN).
Kết quả, hơn một triệu người dân, cán bộ, chiến sĩ cùng 20.000 tấn muối, hàng chục vạn tấn thóc gạo, 40.000 tấn máy móc, thiết bị đã được vận chuyển an toàn lên Việt Bắc và các vùng căn cứ khác. Bộ Nội vụ phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, các đoàn thể và chính quyền địa phương, lập nên những hành lang tản cư huyết mạch, góp phần giữ vững hậu phương kháng chiến.
Dù đạt nhiều kết quả, công tác tản cư cũng bộc lộ nhiều vấn đề cần xử lý. Trong bối cảnh chiến sự khẩn cấp, cán bộ vừa thiếu, vừa non kinh nghiệm, nhiều nơi lúng túng trong tổ chức dẫn tới hiện tượng dân làng A tản cư sang làng B, dân làng B lại chạy sang làng A, không ai chỉ đạo, không có kế hoạch cụ thể.
Trước tình hình đó, ngày 10/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư phê bình Bộ Nội vụ, yêu cầu chấn chỉnh ngay công tác tản cư.
"Bộ Nội vụ cần phải củng cố ngay các Ủy ban hành chính lại. Vô luận thế nào, các Ủy ban hành chính không được bỏ dân bơ vơ... Cần phái người đến vùng địch chiếm để giữ vững tinh thần dân, cho dân biết Chính phủ không quên họ...", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo phân loại dân cư thành hạng A (tản cư lâu dài), B (tạm thời), C (chuẩn bị tản cư) để có kế hoạch phù hợp với từng nhóm và yêu cầu Bộ Nội vụ “phải làm ngay”.
Sau chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, chỉ đạo sát sao hơn và phái người trực tiếp xuống địa phương. Tình hình từ đó dần cải thiện, công tác tản cư đi vào nền nếp. Tuy nhiên, do chiến sự ngày càng ác liệt, nên quy mô tản cư buộc phải rút gọn dần, tập trung vào các địa bàn chiến lược.
Tổ chức Bộ Nội vụ trong chiến khu: Gọn nhẹ và bền bỉ
Khi đến vùng ATK, Bộ Nội vụ ban đầu được gọi bằng tên bí mật "Tiểu đội 1", trú tại xóm Cầu, xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh) ở Sơn Dương, Tuyên Quang. Với sự giúp đỡ của nhân dân, cán bộ Bộ dựng nhà tranh tre nứa bên sườn đồi để làm nơi ăn ở, làm việc.

Cán bộ Bộ Nội vụ làm việc trên chiến khu (năm 1947) (Ảnh: Tư liệu/ Bộ Nội vụ).
Đến đầu năm 1948, trụ sở Bộ được chuyển đến khu đồi cao ven sông Phó Đáy, xã Trung Yên, gần trung tâm liên lạc với các cơ quan khác. Khu làm việc được tổ chức bài bản với nhà làm việc, kho tài liệu, nơi họp, chốt bảo vệ. Dù thiếu thốn về vật chất, cơ quan vẫn duy trì hoạt động đều đặn và an toàn tuyệt đối.
Cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ thời kỳ này được tinh giản tối đa. Toàn cơ quan chỉ còn khoảng 20 cán bộ, được chia thành ba bộ phận: Văn phòng Bộ - phụ trách công văn, điều phối; Nha Công chức Kế toán - đảm nhiệm công tác tổ chức, nhân sự, biên chế và tài chính; và Nha Pháp chính - phụ trách xây dựng pháp luật, thanh tra, giám sát thi hành chính sách.
Cán bộ mỗi phòng không chỉ làm công tác chuyên môn mà còn đảm nhiệm việc tăng gia, tự túc lương thực, vận chuyển văn thư, liên lạc với các địa phương. Không có ranh giới giữa công việc và sinh hoạt. Nhiều cán bộ vừa làm công văn vừa phải đi gánh nước, nấu cơm, trồng rau.
Từ nơi rừng núi xa xôi ấy, Bộ Nội vụ vẫn đều đặn ban hành các chỉ thị, hướng dẫn về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, kiểm tra công vụ, điều động cán bộ, bảo vệ an ninh, và triển khai dân vận.

Cán bộ, nhân viên Bộ Nội vụ thời kỳ ở ATK Tân Trào (1947-1954) (Ảnh: Tư liệu/Bộ Nội vụ).
Cánh tay nối dài của chính quyền trong vùng chiến sự
Bộ Nội vụ không chỉ tồn tại ở vùng chiến khu mà còn hiện diện khắp các vùng tự do và cả vùng tạm chiếm thông qua mạng lưới Ủy ban kháng chiến - hành chính các cấp.
Trước thực tế phân tán địa lý và chiến sự liên miên, Bộ ban hành chính sách phân cấp mạnh cho các địa phương, trao quyền chủ động cho các tỉnh, huyện trong việc tổ chức bộ máy, tuyển dụng cán bộ, điều hành ngân sách, đồng thời giữ vai trò hướng dẫn và giám sát từ xa.
Năm 1948, Bộ trình và Chính phủ ban hành Sắc lệnh 254/SL - văn bản xác lập nền tảng tổ chức bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, làm rõ vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến - hành chính từ cấp xã đến cấp tỉnh. Đây là một bước ngoặt lớn trong việc chuẩn hóa thể chế giữa thời chiến.
Cùng với đó, Bộ Nội vụ chủ trì công tác pháp chế, xây dựng nhiều văn bản về xử lý kỷ luật cán bộ, tổ chức bộ máy, quy chế công chức, quy trình tiếp dân và giải quyết khiếu nại. Bộ cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho cán bộ địa phương về quản lý hành chính, phổ biến chính sách, củng cố niềm tin dân chúng vào chính quyền.
Ngoài ra, cán bộ Bộ còn trực tiếp đi công tác tại các tỉnh, xuống tận xã, thôn để nắm tình hình, xử lý các vụ việc nổi cộm và giúp đỡ chính quyền cơ sở tổ chức lại bộ máy khi cần thiết.
Trong điều kiện sống khắc nghiệt, Bộ Nội vụ vẫn duy trì tinh thần “chính quyền phục vụ nhân dân”. Cán bộ, công chức của Bộ không chỉ làm hành chính mà còn cùng nhân dân kháng chiến, mở lớp bình dân học vụ, tổ chức y tế, vận động nhân dân đóng góp lương thực cho bộ đội, giúp dân chống đói, chống rét.
Nhiều hoạt động văn hóa - văn nghệ được cán bộ Bộ tổ chức tại vùng ATK như đọc thơ, hát, dựng kịch tuyên truyền... tạo sinh khí vui tươi, cổ vũ tinh thần chiến đấu. Bộ cũng giữ liên lạc chặt chẽ với các nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước, kêu gọi họ tham gia kháng chiến, đóng góp cho sự nghiệp chung.
Từ một bộ máy nhỏ bé giữa rừng núi, Bộ Nội vụ đã xây dựng một hệ thống hành chính vừa gọn gàng, linh hoạt, vừa gắn bó mật thiết với nhân dân. Chính điều đó đã giúp chính quyền cách mạng đứng vững trong thời kỳ khó khăn nhất.