Bài toán “nút thắt cổ chai” khi nông dân chuyển đổi số
(Dân trí) - Hay tin trang web của HTX Tiến Thành “đóng băng” sau khi đội ngũ hỗ trợ dự án “rút” về trụ sở, ông Ngô Xuân Chinh không khỏi trăn trở khi nghe những nguyên nhân… quen thuộc.
LỜI TÒA SOẠN
Trong bối cảnh chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn được đẩy mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cùng các chương trình hành động của Chính phủ, hàng triệu nông dân Việt Nam đang bước vào hành trình mới. Không còn chỉ quanh quẩn bên luống rau, thửa lúa, những người nông dân hôm nay trở thành “người bán hàng trực tuyến”, học cách livestream, đóng gói và giao dịch qua các nền tảng thương mại điện tử.
Tuyến bài “Nông dân đổi đời, thoát cảnh "ép giá" nhờ công nghệ số” của báo Dân trí khắc họa những câu chuyện đổi đời từ chiếc điện thoại thông minh, nơi bó rau vài nghìn đồng, quả trứng gà hay giỏ bưởi quê trở thành “sản phẩm số” được tiêu thụ khắp cả nước.
Đằng sau đó là nỗ lực của Trung ương, các địa phương, hợp tác xã và chính người nông dân trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh (theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng); nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp, hướng tới một nền kinh tế nông thôn hiện đại, bền vững và có giá trị gia tăng cao...

“Chuyển đổi số thành công là khi nó được ứng dụng hiệu quả từ lúc hạt giống còn chưa gieo xuống đất, xuyên suốt cho đến lúc thành phẩm và đến tay người tiêu dùng”, ông Ngô Xuân Chinh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện khoa học nông nghiệp miền Nam), nói.
Nhấp ngụm trà, ông Ngô Xuân Chinh trăn trở, nguồn nhân lực chuyển đổi số trong nông nghiệp tại Việt Nam đang thiếu hụt trầm trọng và là điểm nghẽn lớn nhất.


Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa có đường truyền Internet ổn định, chuyện chuyển đổi số càng khó khăn hơn. Điều này vô tình tạo sự manh mún, thiếu liên kết và khác biệt trình độ chuyển đổi số, trong khi doanh nghiệp lớn thừa sức chuyển đổi, hộ nông dân nhỏ, lẻ chỉ có thể… đứng nhìn.
Giám đốc Trung tâm kể đơn vị từng tổ chức hỗ trợ xây dựng trang website cho hai hợp tác xã (HTX) Châu Pha (TPHCM) và Tiến Thành (Tuyên Quang). Khi đội ngũ hỗ trợ dự án rút về đơn vị, sau 1-2 năm, HTX Châu Pha nhờ tìm được nhân sự trẻ, năng động nên tiếp tục phát triển trang website trở thành kênh quảng bá chính thức và bán hàng hiệu quả cho cả địa phương.
Trong khi đó, HTX Tiến Thành không tìm được nhân lực trẻ vận hành nên gần như “đóng băng”, mọi nỗ lực quay trở về vạch… xuất phát.

“Một “nút thắt” khác chính là chi phí đầu tư cho công nghệ số. Máy móc, công nghệ đa số là phải nhập từ nước ngoài, khấu hao cao. Chẳng hạn như muốn chuyển đổi số “toàn phần”, chi phí trung bình là 700 triệu đồng/1.000m2, tương đương 7 tỷ đồng/ha.
Trong khi đó, bà con nông dân hộ nhỏ, lẻ lại hạn chế về nguồn vốn, khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Nhiều người muốn chuyển đổi, muốn phát triển, muốn đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử nhưng khâu nuôi trồng, sản xuất không chuyển đổi nổi, làm sao đủ sức đưa sản phẩm lên sàn?”, ông Ngô Xuân Chinh nói.


Bên cạnh đó, dữ liệu lớn (big data) là yếu tố “sống còn” của chuyện đổi số, nhưng vẫn đang ở mức “chập chững” trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam.
Nhiều lần công tác tại Trung Quốc, ông Ngô Xuân Chinh chia sẻ bản thân không khỏi ngưỡng mộ với “kho báu” big data của nước bạn.
“Khi có dữ liệu lớn, chúng ta dễ dàng hình thành nền tảng số quốc gia về nông nghiệp, đủ khả năng quản lý và phát triển đồng bộ nông nghiệp ở từng địa phương, từng hợp tác xã, từng trang trại, mảnh ruộng, khu vườn. Tôi từng chứng kiến một cán bộ kỹ thuật lần đầu đến khảo sát một địa phương, chỉ cần mở ứng dụng là biết được loại đất, khí hậu, cây trồng, tổng sản lượng, dự báo giá, nhu cầu vật tư, nhân lực… Từ đó, chuyện hoạch định quy hoạch vùng trồng chẳng những làm nhanh, làm đúng mà còn làm trúng”, ông Chinh nhận định.

Nhận tin lô hàng khoai sâm chuyển vào miền Nam bị hư hỏng gần hết, chị Vừ Thị Xia (SN 2000, ngụ tại phường Đoàn Kết, tỉnh Lai Châu) trầm ngâm, thở dài.
“Những lô hàng chuyển đến các tỉnh, thành xa phải mất 3-4 ngày vận chuyển, nhưng khi đến nơi là hư hỏng hết, khiến tôi phải bỏ tiền túi để đền cho bà con.
Ở vùng núi nên kỹ thuật nuôi trồng, thu hoạch, đóng gói vẫn còn thô sơ, ứng dụng công nghệ bảo quản hầu như không có. Việc sử dụng thiết bị chỉ dừng ở mức cơ bản, nhưng tôi và nhiều anh chị em vẫn chưa có nhiều cơ hội được học hỏi, phát triển. Đến giờ, những khó khăn vẫn còn đó”, chị Xia nói.


TS kinh tế Huỳnh Thanh Điền cho rằng chuyển đổi số giúp nông dân nâng tầm sản xuất, nhưng muốn đi xa phải qua hợp tác xã và công nghệ bảo quản. Tính manh mún trong sản xuất và phân phối vẫn là “nút thắt cổ chai” của chuyển đổi số nông nghiệp.
“Phần lớn nông dân Việt Nam vẫn làm ăn nhỏ lẻ, tự phát, nên rất khó áp dụng công nghệ cao hoặc đầu tư hệ thống đồng bộ. Những nơi có hợp tác xã kiểu mới, biết chia sẻ công nghệ, thị trường và kiến thức thì việc chuyển đổi số diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều”, ông cho hay.
Một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy mức độ chuyển đổi số của HTX cả nước mới chỉ đạt 32%. Trong số gần 35.000 HTX thì chỉ có 13,6% HTX đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện.
Theo ông, muốn nâng cao hiệu quả, nông dân cần tham gia hợp tác xã để cùng chia sẻ nguồn lực, chuẩn hóa quy trình sản xuất, truy xuất và thương lượng giá bán. Khi quy mô lớn hơn, hợp tác xã có thể đứng ra đàm phán với doanh nghiệp, giúp bà con tránh cảnh “được mùa mất giá”.
Về khó khăn khi đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử, TS Điền cho rằng điều này không chỉ liên quan đến hạ tầng logistics mà còn nằm ở đặc thù sản phẩm.
“Nông sản tươi chỉ bảo quản được vài ngày, nên nếu không có công nghệ bảo quản hoặc chế biến phù hợp thì rất khó bán đi nơi xa. Do đó, phát triển công nghệ bảo quản, chế biến như hút chân không, sấy khô, đóng gói, là điều kiện tiên quyết nếu muốn đưa nông sản lên sàn và xuất khẩu”, ông nhận định.
Ông cũng lưu ý rằng không phải nông dân nào cũng cần trực tiếp bán hàng trên sàn thương mại điện tử. Nông dân nên tập trung sản xuất, còn việc bán hàng hãy để cho người làm thương mại chuyên nghiệp hoặc hợp tác xã đảm nhận.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam, điều quan trọng là còn phải giúp nông dân, hợp tác xã vượt qua rào cản tâm lý thiếu tự tin khi nghe chuyển đổi số hoặc livestream bán hàng trên sàn thương mại điện tử.
“Khi được định hướng, hỗ trợ và tạo động lực phù hợp, nông dân và các hợp tác xã hoàn toàn có đủ khả năng vượt qua rào cản, thấu hiểu và thành công chuyển đổi số, hướng tới phát triển bền vững”, ông chia sẻ.
Ông Ngô Xuân Chinh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, cho rằng để giải quyết khó khăn trong chuyển đổi số nông nghiệp, trước hết ngành nông nghiệp cần nhanh chóng xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp mở của quốc gia, kết nối đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.


“Thực tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang trong quá trình thu thập big data, hướng tới xây dựng trang thông tin chính của ngành nông nghiệp trên khắp cả nước. Ở đó, mọi thông tin về lĩnh vực đều được cập nhật và quản lý dễ dàng. Điều này sẽ góp phần hỗ trợ phát triển nông sản sạch trên khắp cả nước, tạo nền nông nghiệp ổn định, đồng bộ, nhịp nhàng cung cấp và tránh tình trạng được mùa mất giá”, ông cho biết.
Giám đốc Trung tâm cũng đề xuất các giải pháp khác như thúc đẩy liên kết công - tư; tăng cường các cơ chế, chính sách về tài chính, pháp lý, đặc biệt trong chuyển đổi số; đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng công nghệ số; hình thành mạng lưới logistics có sự liên kết chặt chẽ, quy mô lớn; đào tạo và hỗ trợ nguồn nhân lực trẻ tại chỗ…























