(Dân trí) - Mỗi lần gặp, MK Group do ông Nguyễn Trọng Khang làm Chủ tịch HĐQT gần như lại có một thứ gì đó mới. Lần này, thứ mới của ông là "đem chuông đi đánh xứ người" với máy làm hộ chiếu.
Hồi cuối năm 2024, trong triển lãm công nghiệp quốc phòng, MK Group mang tới triển lãm 5 sản phẩm vũ khí “made in Vietnam”, một phần trong giấc mơ xuất khẩu vũ khí của “cha đẻ” phôi căn cước công dân Nguyễn Trọng Khang. Trong năm đó, tập đoàn của ông Khang cũng mua thêm một công ty Nam Phi chuyên về công nghiệp quốc phòng. Còn bây giờ, ngoài chia sẻ về 3 trụ cột chính của tập đoàn, ông Khang nói thêm về việc đang có kế hoạch triển khai hộ chiếu cho một số nước tại Đông Nam Á.
Trong bối cảnh Nghị quyết 68, Nghị quyết 57 đang được cộng đồng doanh nghiệp phấn khích và hưởng ứng, kỳ vọng nhiệt liệt, những chia sẻ của ông Nguyễn Trọng Khang trên tư cách lãnh đạo một doanh nghiệp tư nhân chính là tiếng nói đau đáu thực chất về câu chuyện doanh nghiệp Việt Nam dám nghĩ, dám làm, tham gia vào những lĩnh vực mang lại nhiều giá trị cũng như “thương hiệu” cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, đang rất hào hứng với Nghị quyết 68. Dưới góc độ một người làm doanh nghiệp tư nhân, cảm nhận của ông thế nào?
- Phải nói là doanh nghiệp tư nhân đang cực kỳ phấn khích với Nghị quyết 68. Tôi cho rằng điều quan trọng nhất của Nghị quyết 68 là đặt doanh nghiệp tư nhân ngang với các thành tố khác.
Doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân thì đều có vai trò riêng phù hợp với từng bối cảnh. Hiện nay, khi khu vực kinh tế tư nhân chứng minh và thể hiện vai trò là một động lực quan trọng - đặc biệt trong đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học công nghệ thì nó được ghi nhận và tạo điều kiện để phát triển đúng tầm đúng hướng.
Thứ nữa, một số lĩnh vực, trong đó có công nghiệp quốc phòng, trước đây là lĩnh vực mới, rất mới với doanh nghiệp tư nhân, nhưng giờ thì doanh nghiệp tư nhân được tham gia vào lĩnh vực không cấm, tức là rộng đường để tham gia vào công nghiệp quốc phòng. Đó là điểm bứt phá.
Nghị quyết 68 là một nền tảng cực tốt. Việc không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, cho cơ hội để khắc phục hậu quả bằng kinh tế là một điểm khiến doanh nghiệp rất hào hứng. Thứ nữa, cho doanh nghiệp tư nhân đứng ngang ngửa với các thành tố khác thì hoàn toàn có thể thúc đẩy được công nghiệp địa phương.

Dù thế, vẫn có một số điểm cần lưu ý, chẳng hạn như Luật Công nghiệp quốc phòng đã mở ra cơ hội cho khu vực tư nhân tham gia lĩnh vực này, nhưng trong thông tư hướng dẫn vẫn nói tới chuyện doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng nòng cốt, vậy nếu không nòng cốt thì sẽ ra sao? Theo tôi, chúng ta cần sự thống nhất trong hướng dẫn, bảo đảm tạo điều kiện bình đẳng, minh bạch cho các doanh nghiệp có năng lực công nghệ tham gia đóng góp vào lĩnh vực đặc thù này.
Tại một số quốc gia như Mỹ, doanh nghiệp tư nhân được tạo điều kiện tham gia sâu vào lĩnh vực công nghiệp quốc phòng với cơ chế kiểm soát chặt chẽ. Đây là mô hình có thể tham khảo để từng bước mở rộng vai trò của khu vực tư nhân trong lĩnh vực này tại Việt Nam. Đó là những rào cản mình cần tính toán.
Ông nói tới công nghiệp quốc phòng và chuyện tham gia của doanh nghiệp tư nhân với cơ hội và cả những rào cản. Vậy làm thế nào để xử lý những hạn chế đó?
- Chúng tôi có gửi một số kiến nghị, nhưng thực sự không rõ những kiến nghị đó đang được xem xét ở mức độ nào, kết quả ra sao, và có được phản hồi chính thức hay không. Doanh nghiệp nhìn thấy vấn đề từ thực tiễn triển khai, nhưng để việc đó được mổ xẻ, xử lý hiệu quả thì rất cần sự trao đổi hai chiều giữa các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp được cập nhật đầy đủ chủ trương, chính sách mới, và ngược lại, tiếng nói của doanh nghiệp được lắng nghe kịp thời, thì quá trình triển khai sẽ đồng bộ, thống nhất và sát thực tiễn hơn.
Ngay như câu chuyện chuyển đổi số - một chủ trương lớn - hiện vẫn còn cách hiểu và cách làm khác nhau giữa các địa phương, dẫn đến thiếu liên thông. Việc thiết lập cơ chế đối thoại, cập nhật thường xuyên giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp là rất cần thiết.

Dĩ nhiên các chính sách lớn luôn cần thời gian để thể chế hóa, như Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được ban hành nửa năm rồi nhưng khi nghị quyết đã có thì cần triển khai theo đúng tinh thần chỉ đạo. Nếu mỗi bên còn phụ thuộc vào nhau, chờ hướng dẫn tiếp theo hoặc điều chỉnh theo văn bản khác, thì rất dễ dẫn đến độ vênh trong thực hiện. Do đó một khi đã có chủ trương đúng, chúng ta cần quyết liệt đưa vào cuộc sống, tránh để khoảng cách giữa nghị quyết và thực tiễn ngày càng giãn ra.
Tôi cho rằng chính sách vĩ mô có vai trò rất quan trọng, và đối với doanh nghiệp, một trong những chính sách cốt lõi là chính sách thuế. Nếu muốn thúc đẩy công nghiệp tại các địa phương thì cần thực hiện các chính sách một cách thực chất và nghiêm túc, bởi cuối cùng, cả nhà đầu tư trong nước lẫn quốc tế đều quan tâm đến chính sách - không phải khẩu hiệu.
Trong vấn đề xuất khẩu, chúng ta thường vui mừng trước những con số tăng trưởng, nhưng nhiều chuyên gia kinh tế đã chỉ ra rằng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam những năm qua vẫn còn thiếu tính bền vững. Tăng trưởng chủ yếu về lượng, trong khi giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu vẫn còn hạn chế.
Theo tôi, đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận một cách thực chất hơn về năng lực nội tại, tập trung vào việc phát triển các sản phẩm công nghệ do người Việt làm chủ, có giá trị gia tăng cao, thay vì chỉ chạy theo các chỉ tiêu tăng trưởng.
Vừa qua, tôi đi Hàn Quốc, có tiếp xúc với một số lãnh đạo doanh nghiệp quy mô cỡ 500 triệu USD thì các ông ấy nói luôn là các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc nhìn Việt Nam đang là "ngôi sao đi lên".
Ngôi sao ở đây là gì? Đó là việc mình có năng lực để tổ chức sản xuất, mà nói gì thì nói, công nghệ hay gì gì đó thì cuối cùng tổ chức sản xuất mới là quan trọng. Thế thì mình đúng, làm sao để Việt Nam mình trở thành một căn cứ, một nền tảng để mà phát triển công nghệ sản xuất. Chúng ta không thể cứ trông cậy mãi vào nhân công giá rẻ. Nếu vậy thì giá trị mình được hưởng ít lắm. Muốn vươn mình thì tôi nghĩ chính là phải thế, phải đi vào công nghệ sản xuất.
Nó giống như việc MK Group trong thời gian ngắn có thể tăng quy mô lên 5 lần với một chi phí rất thấp. Nếu làm chủ công nghệ, doanh nghiệp Việt Nam sẽ làm được việc đó.

Làm chủ công nghệ là một phạm trù khá rộng. Ông có thể chia sẻ một cách cụ thể hơn?
- Chúng tôi đang làm việc này và hy vọng gia tăng được cơ hội hơn nữa. Chúng tôi mua một cái máy làm hộ chiếu. Máy này bên ngoài thị trường có giá dao động nhiều triệu USD nhưng khi MK Group làm thì giá chỉ rẻ bằng 1/10.
Hiện giờ, bước đầu, Indonesia đã đặt vấn đề là họ cần 8 triệu cuốn. Chúng tôi thì đặt vấn để ngược lại là sẽ mang máy sang, mang công nghệ sang, tính giá mỗi cuốn là như vậy như vậy và nước bạn không cần đầu tư gì cả. Mình sẽ bán chip, bán mọi thứ và chúng tôi đang làm rồi. Năm nay sẽ làm 4 máy, hiện 2 máy làm xong rồi, 2 máy đang được làm tiếp, khoảng tháng 8 sẽ xong.
Ví dụ, chúng tôi bỏ ra 20 máy làm hộ chiếu để ở 20 nước, mỗi nước lấy trung bình làm được 5 triệu cuốn hộ chiếu, mỗi cuốn thu 5 vài USD thôi thì thử tính toán xem.
Ý tôi là nếu mình hiểu sâu sắc về một lĩnh vực gì đó thì đó không phải chỉ là cơ hội của mình trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp muốn vươn mình thì cần có những công nghệ như thế, ít nhất mình làm được giống như người ta, mình hoàn toàn có cơ hội tại các nước đang phát triển. Ví dụ như chúng tôi làm căn cước công dân tại Ethiopia, mua doanh nghiệp ở Nam Phi, Brazil…
Thị trường Brazil cỡ 230 triệu dân, thêm Indonesia, Philippines ở châu Á cộng lại cũng có nửa tỷ dân, tính tổng cỡ 1 tỷ dân rồi, mà thị trường 1 tỷ dân là đã rất ra trò rồi. Doanh nghiệp Việt Nam có dư địa rất lớn ở các thị trường đang phát triển như thế vì họ hầu như chưa có gì cả, giao thông công cộng chưa có, chuyển đổi số cũng chưa có… Suy cho cùng, mọi thứ nằm ở nền tảng, người ta chưa có nền tảng thì mình có cơ hội.

Ở MK Group chẳng hạn, công nghệ camera của chúng tôi đã ngang ngửa nước ngoài rồi. Tôi đang cho xây dựng nhà máy giai đoạn 2 để mở công suất, hiện làm 5 dự án, đầu tư lớn lắm. Mình làm được là được tin tưởng ngay. Ví dụ như thuốc phóng thuốc nổ thì làm với Bộ Quốc phòng, còn sau này nếu được tự làm thì chúng tôi sẽ bắt tay vào làm, đảm bảo an toàn, thậm chí liên doanh với các cơ sở quốc phòng để làm.
Năm ngoái, MK Group đã mua một công ty Nam Phi chuyên về camera, có loại camera có thể nhìn xa 20-30 thậm chí 50km trong đêm, phục vụ cho mục tiêu quốc phòng. Drone bay, bị radar phát hiện ra thì radar sẽ báo cho camera đeo bám, bên kia quay thế nào thì camera của mình quay như vậy. Chúng tôi xác định phát triển 3 trụ cột lớn và chuẩn bị rất kỹ cho việc này.
Đó là những cách để mình ra nước ngoài. Mình đi sau, mình cần làm cách khác. Tôi nhìn thấy nhiều cơ hội. Ví dụ như vừa rồi tôi đi châu Âu, sau đó quyết định mua một công ty của Hungary. 70-80% chữ ký số của Việt Nam đang dùng công nghệ này. Giờ tính toán đơn giản là mỗi người cần một chữ ký số, sau này làm gì cũng cần đến chứng từ số, làm sổ đỏ chẳng hạn, thì ai mà chẳng cần chữ ký số.
Tôi thấy chuyển đổi số cần bắt đầu từ những việc cụ thể, thiết thực nhất với người dân. Nếu mỗi công dân có một chữ ký số được công nhận và sử dụng rộng rãi, thì nhiều thủ tục hành chính - trong đó có công chứng - có thể đơn giản hóa hoặc tích hợp ngay trên nền tảng số.
Ví dụ, khi thực hiện các giao dịch như mua bán tài sản, thay vì lăn tay mực đen ngòm hay photo giấy tờ, thì dữ liệu đã có sẵn trong căn cước công dân điện tử hoàn toàn có thể xác thực số, bảo đảm tính pháp lý. Tôi thấy chuyển đổi số nói một cách đơn giản: khi người dân không còn phải mang cả xấp hồ sơ đi công chứng là chuyển đổi số thành công.

Vậy 3 trụ cột như ông chia sẻ cụ thể là như thế nào?
- Làm máy bay, tàu chiến… thì phải có gì đó chứ không phải một ngày đẹp trời nói làm là làm được ngay. Sau khi thu mua một số công ty, chúng tôi vẫn tiếp tục tiến hành công cuộc này. Năm 2024, tôi mua thêm M-Tech.
Ngoài chuyện mình cung cấp tài chính, cung cấp chiến lược hay mạng lưới thì còn là cung cấp những cách làm khác nhau. Tôi muốn tổ chức sản xuất tại đây, xây dựng năng lực sản xuất tại đây. Rõ ràng là chúng ta cần xây dựng năng lực ở đó về cơ khí chính xác, cơ điện tử, quang điện tử, điều khiển học.
Điều khiển học là vô cùng quan trọng, tất nhiên đi kèm với đó là những vấn đề như vật liệu, tuabin khí, thuốc phóng, thuốc nổ, nhiều thứ nữa. Những thứ đó là những việc mà kết hợp được các hiểu biết trong lĩnh vực này của Việt Nam. Năng lực sản xuất của chúng ta cũng hay.
Giống như hiện giờ, chúng tôi làm camera, thậm chí sau này cảnh sát giao thông không phải ra đường nữa, sẽ giống như các nước tiên tiến bây giờ. Ví dụ, về đăng kiểm xe chẳng hạn, cơ quan quản lý bây giờ phải soi hết tem đăng kiểm, nhưng bây giờ AI camera của chúng tôi có thể xác định 500 loại ô tô, nhận ra biển số, đẩy về cơ sở dữ liệu của Nhà nước và kiểm tra xe đó còn đăng kiểm hay không, không còn thì phạt nguội chủ xe luôn. Đó là những thứ hiệu quả.
Tôi cho rằng khi đó nếp của người dân cũng sẽ được thay đổi, điều khiển giao thông văn minh hơn, thành phố sẽ thông minh hơn… Cơ sở dữ liệu ngày càng “giàu” hơn về nhà đất, y tế… và điều này rất quan trọng để hoạch định chính sách và quyết định làm sao cho đúng, hiệu quả, giúp cho người làm chính sách hiệu quả hơn rất nhiều trong chuyện lập chính sách, tính toán được chính sách từ cơ sở đó.

Camera AI là cái mắt, mình cung cấp cho nó cái não nữa thì khi đó chẳng cần con người nữa. Ngay cả với chuyện sản xuất sau này, camera AI sẽ giải quyết được tất cả bài toán về quản lý chất lượng, khi đó thì mọi sản phẩm không cần người nữa. Thứ hai là về robot. Robot nếu muốn làm cho giống con người thì phải có camera AI, có mắt, có não. Ngay cả vũ khí cũng vậy, cũng cần tới AI.
Hướng đi của MK Group tập trung vào 3 trụ cột. ITC là tất cả những hệ sinh thái từ trước đến nay mà chúng tôi làm, rồi camera AI - AI robotic, công nghiệp quốc phòng. 3 trụ cột này rất quan trọng đối với Việt Nam, nên tập đoàn định hướng về lâu về dài là rất quan trọng.
Nhưng trọng số của 3 trụ cột trên sẽ ra sao, vì có những cái sẽ thay đổi theo thời gian, theo xu hướng khoa học công nghệ?
- Tôi cho rằng những gì chúng tôi làm từ trước đến nay có một tiềm năng rất lớn. Việt Nam bây giờ đã tổ chức sản xuất, có công nghệ sản xuất, còn từ góc độ doanh nghiệp triển khai thì tôi biết được cách kiểm soát và sắp xếp như thế nào với giá thành khá thấp. Giờ mình tổ chức nhà máy, xuất khẩu cả nhà máy, cả con người, kỹ sư luôn. Mình có thể huy động người của mình sang dự án ở Mỹ Latinh, Châu Phi, bao gồm kỹ sư, công nhân, sau đó lại rút về.
Thêm nữa, các nước bây giờ đều đi thuê nước ngoài làm các việc đó. Như hộ chiếu chẳng hạn, ngoài câu chuyện tôi nói bên trên thì còn chuyện nữa là một nước mang sang nước khác xong sản xuất đi về thì an ninh quốc gia khi đó sẽ như thế nào. Bây giờ, mình cần mang công nghệ sang nước đó, giúp người ta làm hộ chiếu, họ trả mình tiền, mình chuyển giao công nghệ cho họ hoặc làm dịch vụ cho họ. Đó là cách mà chúng tôi đi.
Như Ethiopia có 130 triệu dân, chúng tôi vào và làm căn cước công dân cho nước này bắt đầu từ năm 2024, làm dạng liên doanh, MK Group 60%, phía Ethiopia 40%. Hay Brazil chẳng hạn, họ có hơn 200 triệu dân, chúng tôi đã đầu tư từ 5 năm trước.
Rất nhiều cuộc chơi khác nhau về công nghệ và chúng tôi đã đi. Dù vậy, phải nói luôn là chúng tôi cũng phải học chứ không đơn giản vì khi làm là làm với những nền văn hóa khác, họ có những cách nghĩ khác…

Vậy vừa qua, các đội ngũ, đơn vị trên thế giới của tập đoàn đã phát triển lên như thế nào?
- Như các đội Nam Phi thì tập trung phát triển, tổ chức lại đội ngũ, cũng phải kinh doanh. Hầu hết công ty đều trong đà rất tốt và trong giai đoạn đầu tư. Tôi nghĩ rằng, đầu tư như vậy là rất hiệu quả, vì đổi lại tập đoàn có được sự tham gia của nhiều chuyên gia công nghệ hàng đầu thế giới.
Người ta có kinh nghiệm, đi cùng mình, sẽ giúp rất nhiều. Giá trị tạo ra từ chính đó.
Đơn giản, để có một đội từ Mỹ vào đây, làm việc với chúng tôi và khi chúng tôi giới thiệu với họ những cái mình đang làm thì họ rất bất ngờ rằng tại sao một công ty Việt Nam lại làm được như thế. Họ sẵn sàng hợp tác, họ sẵn sàng bán máy bay, mình lắp đồ của mình lên thì câu chuyện đơn giản hơn rất nhiều. Việc hợp tác quốc tế là rất quan trọng. Và sản phẩm cũng như là thị trường thì phải là ở cả thị trường trong nước và quốc tế.
Ví dụ, việc MK được tham gia các dự án lớn trong nước như CCCD hay hộ chiếu điện tử chính là cơ hội để chúng tôi tích lũy năng lực, hình thành kinh nghiệm và nền tảng để từng bước vươn ra thị trường quốc tế. Người ta hỏi kinh nghiệm thực tế, sản phẩm thực tế đâu mà mình đưa ra được và cho thấy mình làm được thì cái đầu tiên là mình có trải nghiệm, có sản phẩm và đúng là mình đã làm được những thứ tốt trong các việc mình làm, cho người dân mình, cho tổ quốc mình.
Về mặt doanh nghiệp, chúng tôi mong muốn là Nhà nước cần cởi mở hơn, có những chính sách làm sao nhanh chóng, tạo cơ chế và có những việc cần làm ngay để đưa được các công nghệ vào hỗ trợ, triển khai ngay ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Và những điều cần làm ngay như ông nói là những gì?
- Thứ nhất là cần có những cơ chế mới, không phải chỉ có đầu tư theo dạng như dự án. Thứ hai là có cách cấp giấy phép, cấp bằng sáng chế để sản xuất làm sao cho IP vẫn là của mình, mình sản xuất cái này, quốc phòng sản xuất cái kia thì khi đó sản phẩm sẽ được ra rất nhanh. Ví dụ, theo quy định thì doanh nghiệp tư nhân không làm thuốc nổ thuốc phóng nhưng mà các phần về điều khiển, doanh nghiệp tư nhân làm được thì các bên hợp tác với nhau để làm.
Tôi mong Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho những thứ mang tính chất chiến lược, sẵn sàng có chính sách ưu đãi về thuế để doanh nghiệp đầu tư bởi đầu tư rất tốn kém. Một chương trình sản xuất tên lửa mất tới 10 năm, gần như không dự án nào ít hơn, còn bây giờ mình làm 2-3 năm thì rất là khủng khiếp rồi. Nhưng giờ thì làm được ngay, triển khai được ngay, đây là một sự thay đổi về tư duy và thậm chí lần này rất rất quan trọng.
Như trường hợp của tập đoàn chúng tôi, lần này là rất quan trọng vì là lần đầu tiên một công ty tư nhân Việt Nam ra triển lãm quốc phòng, đưa tất cả sản phẩm ra đó. Cũng giống như bây giờ, vẫn rất nhiều người không tin Việt Nam tự làm được căn cước công dân và hộ chiếu, vì trên thế giới giờ không có nhiều nước làm được. Cái quan trọng nhất là mình được giao nhiệm vụ chưa bao giờ làm nhưng mình dám làm và làm thành công, từ đó thay đổi được đất nước, thay đổi được vị thế của đất nước.

Hỏi thật là MK Group có phải là doanh nghiệp “sân sau”?
- Tôi không có “sân” của ai cả, cũng không muốn làm của ai. Chúng tôi hoạt động độc lập, dựa trên năng lực thực chất để phát triển bền vững. Nhưng tôi thấy rõ ràng, thực tế vẫn đang như vậy. Thế giới đã thay đổi nhiều cuộc chơi.
Trước đây là cuộc chơi mua vũ khí về sử dụng, thì bây giờ cần phải tự chủ, vũ khí phải là loại có điều khiển và đòi hỏi độ chính xác cao. Đó là cuộc chơi mà tôi tin rằng, nếu một doanh nghiệp Việt Nam có công nghệ và năng lực, thì chắc chắn sẽ có cơ hội.
Tôi cho rằng cần có sự chuẩn bị, không thể nói là có ngay được. Nhưng nếu chuẩn bị kỹ lưỡng, có năng lực và khả năng thực chất thì hoàn toàn có thể làm được. Đừng tư duy theo kiểu trong nước hay nước ngoài. Một doanh nghiệp muốn sống được thì phải dựa vào chính năng lực của mình – nếu có năng lực thật thì không có gì là trở ngại.

Về công nghệ, Nhà nước đã có nhiều chính sách và các động lực để cổ vũ việc phát triển ngành công nghệ trong nước cũng như lập trung tâm, tập trung ngành tạo ra giá trị cốt lõi thì góc nhìn của một người làm doanh nghiệp công nghệ trong nước như ông ra sao?
- Thứ nhất, đó là tín hiệu rất tích cực cho Việt Nam khi nhiều quốc gia lựa chọn chúng ta làm điểm đến. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên quá lạc quan mà cần phải xem thực lực của mình thế nào. Cá nhân tôi cho rằng semi-conductor (lĩnh vực bán dẫn) là một cuộc chơi của những quốc gia và tập đoàn có tiềm lực tài chính rất lớn – vài trăm triệu USD vẫn là con số rất nhỏ. Nếu đã nói đến sản xuất, thì bắt buộc phải tính đến yếu tố quy mô.
Tôi nhìn thấy cơ hội sản xuất thiết bị bán dẫn tại Việt Nam, vì lĩnh vực này có nhiều giai đoạn, nhiều bước khác nhau. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam không nên trực tiếp làm, vì rất khó để đủ năng lực về tài chính, công nghệ và các yếu tố liên quan. Cuộc chơi đó đã qua rồi. Những đơn vị như SMC, Samsung - những người đầu tư rất nhạy bén - họ đã vào cuộc. Điều chúng ta nên làm là kéo họ vào, xác định rõ mình có thể cung ứng được gì, phối hợp ra sao.
Chúng ta cần định vị được năng lực của mình, vì vòng đời sản phẩm trong ngành bán dẫn là cực ngắn. Hôm nay làm 5, ngày mai đã là 3, rồi tiếp tục tối ưu đến mức không thể tối ưu thêm - khi đó sẽ xuất hiện vấn đề. Còn để tham gia vào chuỗi và tạo ra sản phẩm vượt qua được hàng rào công nghệ, tôi thực sự chưa có nhiều niềm tin.
Việt Nam nên tập trung vào thế mạnh sản xuất – nơi chúng ta có lợi thế về quy mô và giá thành. Quan trọng là phải định vị rõ mình làm cái gì, ở đâu trong chuỗi giá trị.
Tôi nghĩ một điều tốt là các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam và mở nhà máy, làm thứ này, làm thứ kia và kỹ sư của chúng ta được làm với họ thì sẽ có kinh nghiệm, trải nghiệm và mình xuất khẩu được. Kinh tế Việt Nam là kinh tế xuất khẩu. Dù thế, họ vào đây rồi thì họ cũng dễ chuyển đi nên thứ gì đọng lại được với mình rất quan trọng. Hơn nữa, quan trọng còn là xây dựng được lực lượng nghiên cứu phát triển, nghiên cứu con người.

Còn nếu chúng ta chỉ định vị mình sản xuất thôi thì cũng đâu khác gì kiểu một ông bạn tôi làm giám đốc một công ty may mấy chục nghìn cán bộ nhân viên và dư địa để tối ưu gần như giờ hết rồi, dùng mọi công nghệ cuối cùng vẫn là con người ngồi may. Nhân công cứ tăng, tiền lương cũng tăng trong khi sau Covid-19 thì nhu cầu hàng may mặc, nhu cầu mua sắm lại sụt giảm khi mà người dân đơn giản hóa cuộc sống đi rất nhiều. Như vậy thì không ổn.
Trước khi Covid-19 xảy ra, người ta mất hàng chục năm để xây dựng hành vi ra ngoài ăn uống, mua sắm, nhiều nhãn hàng cũng phát triển nhờ hành vi này. Bỗng nhiên đến một ngày mình thấy mình đơn giản đi bao nhiêu, ăn ở nhà, mặc đồ đơn giản. Bây giờ Việt Nam đang có nhiều doanh nghiệp FDI thì mình cũng tranh thủ tận dụng, tôi nghĩ việc cần làm cho câu chuyện bán dẫn là đào tạo cán bộ, mở rộng các nhà máy sẵn có để người ta vào, mình làm đóng gói, đấy là cơ hội của chúng ta ở thời điểm này.
Tập đoàn chúng tôi vừa đầu tư vào một công ty có thể gọi là công ty bán dẫn. Sản phẩm của công ty này được chúng tôi ứng dụng để sản xuất camera tầm nhiệt tích hợp AI, có khả năng quan sát cả ngày lẫn đêm.
Chúng tôi cũng đầu tư vào một công ty khác có sở hữu IP, quy trình sản xuất và đầy đủ nền tảng kỹ thuật, nhưng sẽ chọn thuê đơn vị ngoài một số khâu, sau đó tích hợp thành sản phẩm hoàn chỉnh mang thương hiệu của chúng tôi – đủ sức cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. Khi đó, cuộc chơi sẽ thay đổi. Đó chính là công nghệ lõi.
Nghe ông nói thì ông toàn chọn làm những cái khó? Có phải ai cũng dám làm đâu vì rủi ro cao?
- "Nothing venture, nothing have" (Không mạo hiểm, không thành công) đúng không? Tôi cho rằng điều đó rất quan trọng để mà mình tiến lên. Mình muốn làm, mình dám làm và lúc đầu tôi nghĩ nó cũng chưa hoàn hảo đâu. Vì sao ở mảng quân sự tôi phải đầu tư vào công ty nọ, công ty kia, vì lĩnh vực này đòi hỏi sự hoàn hảo ngay từ đầu, có yêu cầu kỹ thuật và an toàn rất cao, doanh nghiệp phải đảm bảo độ chính xác tuyệt đối ngay từ khâu nghiên cứu - phát triển cho đến triển khai thực tế, không cho phép mình được sai.
Tôi nghĩ là cần có một tầm nhìn thực sự vì Việt Nam. Tôi thấy sứ mệnh của tôi hay doanh nghiệp của tôi cũng cần thay đổi, không thể chỉ dừng lại ở chuyện kiếm ăn, có lợi nhuận. Mình cần vượt lên phần đó rất nhiều.
Cảm ơn ông!

