(Dân trí) - Chủ trương xây dựng một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc từ 2026 không chỉ là giải pháp để khắc phục những bất cập trong thực tiễn, mà còn là một quyết sách chiến lược.
Việc này nhằm định vị lại vai trò của sách giáo khoa và sự sáng tạo của giáo viên trong bối cảnh đổi mới.
Từ góc nhìn chuyên gia và kinh nghiệm quốc tế, việc thống nhất sách giáo khoa (SGK) không hề đi ngược xu thế, mà ngược lại, còn mở ra cơ hội để nâng cao chất lượng giáo dục, hướng tới sự công bằng và bền vững.


Theo PGS.TS Nguyễn Kim Hồng - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TPHCM - việc triển khai một bộ SGK thống nhất trên phạm vi toàn quốc không đi ngược xu hướng giáo dục của thế giới.
Ông cho rằng, thực tế nhiều quốc gia sử dụng đa dạng tài liệu dạy học, trong đó có SGK, nhưng hiệu quả phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và sự chủ động của giáo viên trong thiết kế bài giảng.
Dẫn ví dụ chương trình giáo dục phổ thông lớp 10 môn địa lý ở Úc chỉ dài 27 trang, PGS Kim Hồng cho biết, từ khung chương trình đó, giáo viên tự xây dựng các chủ đề, chủ điểm phù hợp.
Theo ông, cái gốc của giáo dục phổ thông là chương trình, SGK là công cụ. Trước kia, giáo viên Việt Nam khó thực hiện điều này do khối lượng công việc lớn, nhất là việc chấm bài nhưng hiện nay công nghệ đã hỗ trợ giải quyết vấn đề này. Giờ đây, giáo viên hoàn toàn có thể chủ động thiết kế, xây dựng bài giảng khi có chương trình môn học rất chi tiết như ở Việt Nam.
Ông nhấn mạnh, một bộ SGK chung không làm mất đi sự sáng tạo của giáo viên. Trên nền tảng kiến thức thống nhất đó, giáo viên hoàn toàn có thể chủ động phát triển tài liệu, xây dựng bài giảng phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chính giáo viên mới là người quyết định chất lượng và sự sáng tạo trong dạy học.
Trong bối cảnh này, theo PGS.TS Nguyễn Kim Hồng, nếu Nhà nước cung cấp được SGK cho học trò theo cách được dùng lâu dài sẽ đem lại nhiều lợi ích trong triển khai dạy học.
“Một bộ SGK thống nhất, được sử dụng lâu dài và tiến tới cấp miễn phí, sẽ giúp tiết kiệm chi phí lớn cho gia đình và xã hội. Nhiều quốc gia không in lại SGK mới mà chỉ cập nhật bản điện tử hoặc phụ lục khi cần điều chỉnh dữ liệu”, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TPHCM chia sẻ.

Đề cập giải pháp công nghệ, PGS.TS Nguyễn Kim Hồng đặt ra vấn đề có thể ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để tổng hợp, chọn lọc nội dung từ các bộ SGK hiện có, hình thành một bộ sách hoàn chỉnh, thống nhất.

Trước nhiều ý kiến cho rằng “đảm bảo cung cấp một bộ SGK thống nhất toàn quốc” đi ngược tinh thần “một chương trình - nhiều SGK” và sẽ làm mất tính tự chủ, sáng tạo của giáo viên, GS Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, người trực tiếp tham gia biên soạn SGK và bám sát thực tiễn triển khai chương trình trong 5 năm qua, nêu quan điểm cần phải đánh giá một cách bình tĩnh và thận trọng.
Ông Vinh bày tỏ, Nghị quyết 88/2014/QH13 ban hành năm 2014 đã nêu rõ khuyến khích các tổ chức, cá nhân biên soạn SGK trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông. Đồng thời, để chủ động triển khai chương trình mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn một bộ SGK; bộ sách này được thẩm định và phê duyệt công bằng như các SGK khác.
Việc đảm bảo cung cấp một bộ sách thống nhất toàn quốc nhằm đảm bảo mọi vùng miền, đặc biệt là vùng khó khăn, có thể triển khai chương trình mới thuận lợi, không bị cản trở bởi giá sách, nguồn cung hay khả năng tiếp cận học liệu là một việc phù hợp.
Nếu có đơn vị, cá nhân biên soạn được sách hay hơn, phù hợp hơn, cánh cửa luôn mở để đưa vào sử dụng. Nhưng nếu không làm tốt hơn hẳn, việc có nhiều bộ sách “tốt như nhau” và có thể thay thế nhau, sẽ chỉ phân tán nguồn lực và gây khó khăn cho triển khai, trong khi giá trị gia tăng không đáng kể.
Đặt ra tình huống sắp tới nếu chỉ lựa chọn một trong ba bộ sách hiện hành để sử dụng thống nhất, liệu có làm mất đi “tự chủ” hay “sáng tạo” của giáo viên như nhiều người băn khoăn, theo ông Vinh là “không”.

Ông Vinh cho rằng, thực tế cả ba bộ SGK đều có chất lượng tốt, giáo viên dùng bộ nào cũng có thể dạy tốt. Sáng tạo và tự chủ của giáo viên không phụ thuộc vào số lượng bộ sách mà nằm ở năng lực sư phạm và khả năng tổ chức dạy học, biến nội dung thành trải nghiệm phù hợp, gắn kết với đời sống học sinh và khơi gợi hứng thú học tập.
“Số lượng bộ sách không nên là thước đo của đổi mới, điều quyết định nằm ở việc mọi vùng miền có được bộ sách tốt nhất để triển khai thuận lợi, đồng thời giáo viên được hỗ trợ để biến sách thành bài học sống động và hiệu quả. Một bộ sách tốt chỉ là công cụ, hiệu quả dạy học vẫn phụ thuộc vào tay nghề và sự chủ động của người thầy”, GS Lê Anh Vinh nhấn mạnh.
Bác bỏ quan điểm cho rằng SGK thống nhất là "bước lùi", GS.TS Phan Văn Tân - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội - nhìn lại lịch sử: “Tại sao trước đây chỉ có một bộ sách mà đất nước vẫn đào tạo ra biết bao nhân tài mà giờ ta lại cần đến quá nhiều bộ khác nhau?”.
Ông cũng nhấn mạnh, một bộ SGK thống nhất không có nghĩa là “đóng khung” sáng tạo. Các nhà khoa học, tác giả hoàn toàn có thể viết, xuất bản và sử dụng tài liệu tham khảo để làm phong phú thêm nội dung dạy học.
“Nếu có bộ sách nào tốt hơn, xã hội sẽ ghi nhận và cơ quan quản lý có thể cập nhật, điều chỉnh. Đó là sự tiến hóa tự nhiên của tri thức, chứ không phải bước lùi”, ông nói.
GS Phan Văn Tân phân tích thêm, một bộ SGK thống nhất sẽ mang lại ba lợi ích lớn.
Thứ nhất, giúp thiết lập chuẩn mực chung cho đánh giá, kiểm tra, đảm bảo công bằng giữa các vùng miền.
Thứ hai, giúp tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và người dân, khi sách có thể dùng lại, chia sẻ giữa các thế hệ.
Thứ ba, khả năng hỗ trợ xã hội tốt hơn, dễ dàng huy động quyên góp khi xảy ra thiên tai, mất mát, tạo điều kiện cho thư viện trường học phát huy vai trò, giúp học sinh tiếp cận sách học tập thuận tiện hơn.

Ông Lê Hồng Thái - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Phan Văn Trị, phường Cầu Ông Lãnh, TPHCM - cũng nhấn mạnh sự thống nhất là ưu điểm lớn nhất của chủ trương này. Việc thống nhất một bộ SGK toàn quốc giúp các trường dễ dàng triển khai việc giáo dục và dạy học.
"Khi cả nước thống nhất một bộ sách SGK, việc quản lý, kiểm tra đánh giá và so sánh chất lượng dạy học giữa các tỉnh, thành sẽ thuận lợi hơn nhiều", ông Thái nói.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, một bộ SGK thống nhất chỉ thật sự thành công khi giáo viên được trao quyền sáng tạo. Nếu dạy - học chỉ bám vào sách, không mở rộng ngữ liệu, chúng ta có thể quay lại lối dạy tủ, học vẹt. Do đó, ông nhấn mạnh cốt lõi của sự thành công nằm ở đội ngũ giáo viên. Họ phải không ngừng tìm tòi, đổi mới để làm phong phú bài giảng. Trong khi đó, các cấp quản lý cần cởi mở, linh hoạt để khuyến khích sự sáng tạo.

Thầy Hiệu trưởng kiến nghị, bộ sách SGK thống nhất cần xây dựng thật chuẩn, mang tính “khung” tham khảo, còn giáo viên được chủ động lựa chọn ngữ liệu dạy học.
Tương tự, bà Nguyễn Thị Hẹn - nguyên giáo viên ngữ văn Trường THCS Xuân Sơn, Quảng Ninh - bày tỏ kỳ vọng: “Việc đổi mới SGK kèm theo đổi mới phương pháp giảng dạy. Giáo viên cần được tập huấn kỹ càng trước khi chính thức sử dụng bộ sách mới trên toàn quốc”.
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, Điều phối viên chính, Ban Phát triển Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018, Tổng Chủ biên sách giáo khoa môn tiếng Việt - ngữ văn, bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, nhận định mục tiêu cuối cùng của một bộ SGK thống nhất vẫn là “phải nâng cao chất lượng dạy và học” như Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ đạo.
Theo ông Hùng, với Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, công cuộc đổi mới chương trình và SGK chuyển sang giai đoạn mới, từ “một chương trình - nhiều SGK” sang “một chương trình - một bộ SGK thống nhất”.

Dẫu vậy, ông cho rằng dù biên soạn một bộ SGK mới hoàn toàn hay lựa chọn trong các bộ sách hiện hành để có bộ SGK thống nhất thì các bộ sách đang dùng vẫn nên được tiếp tục lưu hành, nhằm đảm bảo sự đa dạng về tài liệu dạy học.
Cũng theo vị Tổng chủ biên, việc lưu hành một số tài liệu dạy học khác ngoài bộ SGK thống nhất còn giúp giảm nhẹ nguy cơ hệ thống giáo dục trở lại với lối dạy học đóng khung trong một cách tiếp cận duy nhất, gây tổn hại đến mục tiêu đào tạo những con người có năng lực sáng tạo - một năng lực góp phần quyết định việc đào tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nhấn mạnh yêu cầu về tính hiện đại của bộ SGK sắp tới, ông Lê Ngọc Điệp, nguyên Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học, Sở GD&ĐT TPHCM, đã nhắc lại một quan điểm từ hội thảo quốc gia năm 1993 tại Huế.
Ông cho biết, ngay từ thời điểm đó, ông đã từng nhấn mạnh rằng: “Đất nước đang hội nhập và tiến tới xã hội công nghiệp, hiện đại, nên việc xây dựng SGK phải “trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu” để đón đầu tri thức mới”.
Quan điểm này đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và cấp thiết. Vị chuyên gia phân tích, với tốc độ kiến thức nhân loại ngày nay đã tăng gấp nhiều lần chỉ trong vòng một năm, điều đó đòi hỏi ngành giáo dục phải thay đổi kịp thời và căn cơ trong việc biên soạn và cập nhật học liệu.
Dù ở thành thị hay nông thôn, miền núi hay đồng bằng, trẻ em đều cần được tiếp cận với chương trình hiện đại, phù hợp với tâm lý, văn hóa và xã hội hiện đại. Ngôn ngữ mẹ đẻ - tiếng Việt - cần được dạy như một công cụ nền tảng vững chắc, từ đó giúp trẻ phát triển toàn diện. Trong đó, SGK giữ vai trò đặc biệt.
Dưới góc độ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, không có mô hình nào hoàn hảo và lựa chọn của mỗi nước phản ánh triết lý giáo dục, bối cảnh xã hội và mục tiêu phát triển.
Trên thế giới có ba mô hình phổ biến. Mô hình thứ nhất là một bộ SGK thống nhất do Nhà nước biên soạn, như ở Trung Quốc, Nga, Cuba…

Ưu điểm nổi bật là giúp thống nhất SGK toàn quốc, giữ gìn bản sắc, giảm chi phí nhờ in ấn tập trung, đồng thời tạo thuận lợi trong kiểm tra, đánh giá, bảo đảm công bằng giữa các vùng miền.
Tuy nhiên, việc này khó đáp ứng nhu cầu khác biệt của các vùng miền, ít khuyến khích sáng tạo và đổi mới phương pháp dạy học.
Ngược lại, mô hình thứ hai là nhiều bộ SGK xã hội hóa, tiêu biểu ở Mỹ, Đức, Canada, Úc, đem lại sự đa dạng và linh hoạt, phát huy vai trò chủ động của giáo viên và nhà trường.
Các nhà xuất bản được tự do biên soạn theo chương trình khung; giáo viên và nhà trường được quyền lựa chọn bộ sách phù hợp. Điều này khuyến khích cạnh tranh, tạo sự đa dạng và thúc đẩy sáng tạo. Nhưng điều này cũng dễ dẫn đến bất bình đẳng, chênh lệch chất lượng nếu thiếu kiểm soát.
Mô hình thứ ba là kết hợp, điển hình ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Nhiều nhà xuất bản tham gia biên soạn, song Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ động ở những môn học cốt lõi như lịch sử, ngôn ngữ hay giáo dục công dân. Mô hình kết hợp được xem là dung hòa, vừa duy trì nền tảng chung, vừa khuyến khích cải tiến. Song đi kèm là yêu cầu cao về quản trị và nguy cơ chồng chéo trong lựa chọn.

Đáng chú ý, không ít quốc gia từng để thị trường hoàn toàn quyết định SGK nhưng rồi phải quay lại với một bộ sách Nhà nước.
Ở Thái Lan, sự chênh lệch chất lượng giữa các bộ sách đã gây bất bình đẳng, buộc Chính phủ xây dựng SGK chuẩn.
Tương tự, Indonesia từng thả nổi cho thị trường, nhưng giá sách tăng cao, học sinh vùng sâu vùng xa không tiếp cận được. Kết quả là Bộ Giáo dục phải phát hành SGK quốc gia giá rẻ và bản điện tử miễn phí.
Philippines và Malaysia cũng có bước đi tương tự để duy trì sự thống nhất giá trị và bảo đảm cơ hội học tập cho mọi học sinh.
Thực tế cho thấy không có mô hình SGK nào hoàn hảo, do đó, tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia mà có lựa chọn phù hợp.
“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, dù áp dụng mô hình nào, vai trò của Nhà nước vẫn là yếu tố then chốt. Một bộ SGK chính thức do Nhà nước biên soạn không chỉ là chuẩn mực quốc gia, mà còn là công cụ bảo đảm công bằng, định hướng giáo dục, giữ gìn giá trị cốt lõi”, TS Sái Công Hồng, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT chia sẻ.

























