Từ G-Dragon nghĩ về công thức tỷ USD Kpop và "sức mạnh mềm" của Việt Nam
(Dân trí) - Theo các chuyên gia, Việt Nam có thể học hỏi từ con đường thành công của Hàn Quốc để tương lai không xa tạo nên "làn sóng Vpop" vươn ra toàn cầu.
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV đang nhận được sự quan tâm, góp ý của các cấp chính quyền, các tầng lớp nhân dân, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu và quản lý trên cả nước.
Ở lĩnh vực văn hóa, giới chuyên gia cho rằng, văn hóa nghệ thuật Việt Nam có những dấu ấn tích cực thời gian qua, nhưng chưa chuyển hóa thành sức mạnh cho quốc gia. Trong giai đoạn mới, nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, được kỳ vọng là chìa khóa để mang về lợi nhuận kinh tế, xây dựng "sức mạnh mềm" của Việt Nam ra thế giới.

Một buổi hòa nhạc của chương trình "Anh trai say hi" (Ảnh: Vie Channel).
Từ cơn sốt concert G-Dragon, nhìn lại hiệu ứng Kpop trên thế giới
Vừa qua, ca sĩ Hàn Quốc G-Dragon chọn Việt Nam làm điểm dừng chân trong chuyến lưu diễn thế giới Übermensch. Hai concert (buổi hòa nhạc) diễn ra tại Hưng Yên vào ngày 8/11 và 9/11 thu hút gần 100.000 khán giả, trở thành tâm điểm chú ý của người hâm mộ.
Trước Việt Nam, chuyến lưu diễn Übermensch của G-Dragon đã gây tiếng vang lớn tại Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Indonesia, Trung Quốc, Pháp, Mỹ và Australia. Theo tờ Money Today (Hàn Quốc), chuyến lưu diễn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho các địa phương đăng cai.


G-Dragon trong buổi hòa nhạc tổ chức ở Hưng Yên (Ảnh: Instagram nhân vật).
Thời điểm này, nhóm nhạc nữ Blackpink cũng thực hiện chuyến lưu diễn toàn cầu mang tên Deadline. Hôm 18/10 và 19/10, Blackpink dừng chân tại Cao Hùng (Đài Loan, Trung Quốc), thu hút khoảng 60.000 khán giả mỗi đêm. Theo Cục kinh tế Cao Hùng, 2 đêm nhạc mang lại 300 triệu Đài tệ (khoảng 253 tỷ đồng) doanh thu du lịch, tạo nên cơn sốt chưa từng có ở địa phương.
Hồi tháng 7, BlackPink cũng lập kỷ lục khi trở thành nhóm nhạc nữ đầu tiên trên thế giới "cháy vé" tại sân vận động SoFi (Los Angeles, Mỹ), thu hút hơn 100.000 khán giả cho 2 đêm diễn.
Nhiều khán giả nhận xét, các chuyến lưu diễn của G-Dragon và Blackpink không chỉ nói lên sức ảnh hưởng của những ngôi sao hàng đầu Hàn Quốc, mà còn phản ánh sức mạnh vượt trội của làn sóng Kpop (nhạc trẻ Hàn Quốc) đối với thị trường châu Á và thế giới.

Hai đêm concert của Blackpink tại Cao Hùng thu hút khoảng 120.000 khán giả (Ảnh: Allkpop).
Trao đổi với phóng viên Dân trí, chuyên gia âm nhạc Hoàng Huy Thịnh cho rằng, ngành công nghiệp biểu diễn của Hàn Quốc có tốc độ phát triển nhanh đến khó tin.
Nếu như khoảng năm 2010-2014, các concert Kpop chủ yếu giới hạn trong khu vực châu Á, quy mô khoảng 10.000-20.000 khán giả/đêm, thì sự bứt phá thần kỳ của những nhóm nhạc thế hệ ba như BTS, Blackpink, Twice... đã đưa ngành công nghiệp biểu diễn xứ Hàn "xâm chiếm" mạnh mẽ vào thị trường Mỹ, châu Âu.
Nhóm BTS từng bán "cháy vé" loạt concert tổ chức ở các sân vận động quy mô 30.000-50.000 chỗ ngồi tại Mỹ, Anh, Pháp, Brazil; thu hàng trăm triệu USD mỗi chuyến lưu diễn. Tương tự, Blackpink cũng từng có những chuyến lưu diễn thế giới thành công, lập kỷ lục doanh thu, vượt qua nhiều nhóm nhạc nữ huyền thoại phương Tây.
"Ngày nay, việc sao Hàn tổ chức concert ở khắp nơi trên thế giới - đặc biệt là tại những thị trường lớn vốn từng mặc định chỉ dành cho nghệ sĩ phương Tây - không còn là chuyện hiếm gặp. Sự trỗi dậy của Kpop ở nhiều khu vực trên thế giới cho thấy sức mạnh của âm nhạc trong việc bắc cầu nối giữa các nền văn hóa, phá bỏ rào cản ngôn ngữ.
"Sức mạnh mềm" của Hàn Quốc ở đây không chỉ nằm trong bài hát hay vũ đạo, mà ở khả năng tạo ra cộng hưởng văn hóa quy mô lớn. Những chuyến lưu diễn toàn cầu tạo nên hiệu ứng dây chuyền cho du lịch, dịch vụ, truyền thông và kinh tế từng địa phương. Qua đó, âm nhạc Hàn Quốc đã mở ra góc nhìn rộng lớn hơn, nơi mỗi thần tượng trở thành mảnh ghép của sức mạnh mềm, định hình thị hiếu, văn hóa thưởng thức, tiêu dùng của khán giả quốc tế", chuyên gia nhận xét.
Cách Hàn Quốc xây dựng "sức mạnh mềm" từ âm nhạc
Sau hơn 2 thập kỷ tập trung phát triển, Kpop với những hoạt động như tổ chức concert, bán đĩa nhạc, phát hành nhạc trực tuyến, bán merchandise (vật phẩm lưu niệm)... đã trở thành ngành công nghiệp tỷ USD, đưa "sức mạnh mềm" chuyển thành lợi ích kinh tế quan trọng cho Hàn Quốc.
Theo báo cáo do TikTok và tổ chức nghiên cứu thị trường Kantar của Anh công bố năm nay, quy mô thị trường ngành công nghiệp Kpop hiện tại ước tính đạt 76 tỷ USD. Với đà tăng trưởng này, tiềm năng hàng hóa, dịch vụ và sản phẩm liên quan Kpop ước tính có thể đạt 143 tỷ USD vào năm 2030.

BTS - nhóm nhạc Hàn Quốc nổi tiếng toàn cầu (Ảnh: BigHit Entertainment).
Để hiểu vì sao Kpop chinh phục được thế giới, giới chuyên gia cho rằng phải nhìn vào hệ sinh thái giữa nghệ thuật, truyền thông và chiến lược quốc gia. Trong đó, những chính sách hỗ trợ phát triển văn hóa của Chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Theo Financial Post, từ năm 2005, chính phủ Hàn Quốc đã phát động quỹ đầu tư trị giá 1 tỷ USD để hỗ trợ ngành công nghiệp âm nhạc. Năm 2014, quốc gia này dành 1% ngân sách để chi trợ cấp và cho vay lãi suất thấp với các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực văn hóa, thành lập các cơ quan xúc tiến và mở rộng xuất khẩu Kpop, đồng thời mở thêm các khoa văn hóa tại các trường đại học.
Tất nhiên, để Kpop trở thành ngành công nghiệp sinh lợi nhuận khổng lồ không phải là câu chuyện một sớm một chiều. Thương hiệu của từng nhóm nhạc, từng thần tượng và từng công ty giải trí hình thành dựa trên quá trình nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.
Ở đó, những công ty giải trí không chỉ "bán" âm nhạc, mà còn tiếp thị "hình tượng ca sĩ", xây dựng hệ sinh thái phong phú, từ hát, nhảy, thời trang đến câu chuyện của từng cá nhân.

Ông Jeong Jae Min - Trưởng bộ phận Hợp tác âm nhạc của Kakao Entertainment - phát biểu ở hội thảo hôm 31/10 (Ảnh: Ban tổ chức).
Tại Diễn đàn nội dung Hàn Quốc - Việt Nam diễn ra cuối tháng 10 ở TPHCM, ông Jeong Jae Min - Trưởng bộ phận Hợp tác âm nhạc của Kakao Entertainment - đã có bài phát biểu về mô hình đào tạo nghệ sĩ bài bản của Hàn Quốc - một "công thức thành công" có thể gợi mở hướng phát triển cho thị trường mới nổi như Việt Nam.
Ông Jeong Jae Min cho biết, sự thành công của Kpop đến từ một hệ thống đào tạo và phát triển có cấu trúc rõ ràng với quy mô toàn cầu. Năm giai đoạn quan trọng trong quá trình này bao gồm: Tuyển chọn (tìm kiếm tài năng tiềm năng ở khắp nơi như trường học, trên mạng xã hội, tại các buổi thử giọng công khai hoặc toàn cầu); đào tạo (rèn luyện toàn diện, không chỉ hát và nhảy, mà còn học về giao tiếp, ngôn ngữ và hiểu biết văn hóa); đánh giá (hằng tuần, hằng tháng); ra mắt khán giả và cuối cùng là mở rộng thương hiệu.
Sau khi ra mắt, nghệ sĩ tiếp tục mở rộng giá trị thương hiệu thông qua âm nhạc, video, chuyến lưu diễn và sản phẩm, tạo nên hệ sinh thái thương mại hóa xoay quanh cá nhân.
Tuy nhiên trên thực tế, trung bình chỉ có khoảng 5 trên 100 thực tập sinh ở các "lò đào tạo" có cơ hội được ra mắt. Sự khắc nghiệt của Kpop còn dữ dội và phức tạp hơn, khi chỉ số ít thần tượng, nhóm nhạc ra mắt hằng năm trở nên nổi tiếng, chen chân được vào các bảng xếp hạng trong nước và nuôi giấc mơ vươn ra thế giới.
Bên cạnh chính sách hỗ trợ của chính phủ, hệ thống tuyển chọn, đào tạo và hoạt động bài bản, sự thành công của Kpop còn phụ thuộc lớn vào yếu tố truyền thông, công nghệ. Những bài hát bắt tai, những điệu nhảy bắt mắt, những màn trình diễn ấn tượng, là chưa đủ, mà còn cần tận dụng những phương tiện mạng xã hội để đưa giấc mơ "siêu sao toàn cầu" thành sự thực.
Khởi đầu với "cú nổ" mang tên Gangnam Style (bài hát ra mắt năm 2012 của PSY), cho đến nay, Kpop sở hữu rất nhiều bản hit tỷ lượt xem trên YouTube. Sự tham gia của những nền tảng như YouTube, Facebook, TikTok đã góp phần làm gia tăng khả năng nhận diện âm nhạc Hàn, tăng cơ hội trao đổi văn hóa của Hàn Quốc, qua đó càng củng cố thêm quyền lực mềm của ngành công nghiệp Kpop.
Ngoài ra, thần tượng Kpop luôn tận dụng sức ảnh hưởng của mình để đa dạng hóa nguồn doanh thu. Lợi nhuận mà ca sĩ Hàn mang về không chỉ từ âm nhạc, mà còn từ nhiều sản phẩm, dịch vụ khác như làm đẹp, thực phẩm, thời trang và du lịch.
Khi làn sóng Kpop trở thành hiện tượng toàn cầu, khán giả từ khắp nơi trên thế giới cũng sẽ quan tâm đến nhiều lĩnh vực như du lịch Hàn Quốc, học tiếng Hàn, thời trang và ẩm thực xứ kim chi, nhờ đó gián tiếp kích cầu kinh tế cho nước này.
Những bài học cho Việt Nam chinh phục khát vọng xuất khẩu nhạc Việt
Chia sẻ với phóng viên Dân trí, ông Trần Thăng Long - Trưởng bộ phận âm nhạc và marketing nghệ sĩ Việt của Universal Music Việt Nam - nhận xét, ngành công nghiệp Kpop là thị trường âm nhạc phát triển bài bản, mức độ cạnh tranh cao trong thời gian dài.
"Điều đáng học hỏi nhất từ ngành công nghiệp Kpop, không nằm ở những bài hát bắt tai, vũ đạo bắt mắt hay video hoành tráng, mà ở việc họ đã xé bỏ rào cản ngôn ngữ và tự tạo ra một nền âm nhạc đặc trưng, hiện đại, tạo ra ảnh hưởng đến toàn cầu. Điều đó rất truyền cảm hứng cũng như đáng học hỏi để nhạc Việt nỗ lực đầu tư bài bản và tìm tòi con đường của riêng mình", ông Long đưa ra quan điểm.
Theo ông Trần Thăng Long, so với thế hệ đi trước, thế hệ nghệ sĩ trẻ hiện nay của Việt Nam có nhiều cơ hội để thành công, tỏa sáng bằng âm nhạc và vươn ra quốc tế. Nhìn vào bức tranh toàn cảnh khoảng 2 năm gần đây, nền công nghiệp âm nhạc Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh, tương đối ổn định cả về chất lượng lẫn nội lực, để đuổi kịp thị trường quốc tế.

Các nghệ sĩ biểu diễn trong concert "Anh trai vượt ngàn chông gai" tại TPHCM hôm 7/9 (Ảnh: Khoa Nguyễn).
Chuyên gia truyền thông Hồng Quang Minh thẳng thắn nhận định, cốt lõi của việc học hỏi từ thành công của Kpop không phải là "sao chép", mà ở việc khai thác được bản sắc và khí chất riêng của Việt Nam.
"Hàn Quốc làm được là vì họ tập trung nguồn lực, nhất quán tầm nhìn và đầu tư bài bản vào từng khâu, từ đào tạo, sản xuất đến truyền thông. Nhưng sâu xa hơn, họ kể những câu chuyện của chính họ, bằng ngôn ngữ toàn cầu: Giải trí cao, hình ảnh chỉn chu, thông điệp xúc cảm.
Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều tương tự, nếu ta bớt hoài nghi chính mình, bớt mải mê “chạy theo lượt xem” mà quay lại đầu tư cho chất lượng nội dung, bản sắc kể chuyện và định vị tầm vóc văn hóa. Về âm nhạc, chúng ta có kho dân ca dân gian, nhạc đỏ, nhạc hàn lâm đầy chiều sâu. Nhưng nếu không biết đưa tất cả điều đó vào sản phẩm đại chúng một cách tinh tế và hấp dẫn, thì thế giới sẽ không có lý do để lắng nghe chúng ta", ông Minh góp ý.

Ca sĩ Chi Pu và rapper Hàn Quốc B.I tại lễ hội âm nhạc diễn ra ở TPHCM hôm 16/11 (Ảnh: Facebook nhân vật).
Theo ông Hồng Quang Minh, âm nhạc Việt Nam không thiếu tài năng, nhưng thiếu tầm nhìn dài hạn, sự liên kết chiến lược giữa người làm sáng tạo, nhà đầu tư, truyền thông, và chính sách văn hóa.
"Hàn Quốc có Kpop, nhưng sau đó họ đẩy tiếp phim truyền hình, trò chơi điện tử, thời trang, ẩm thực, tất cả xoay quanh một trục để truyền tải tinh thần Hàn Quốc ra thế giới bằng nhiều định dạng. Việt Nam hiện có nhiều cá nhân tỏa sáng, nhưng để tạo ra một "làn sóng Việt Nam" thì cần nhiều hơn.
Chúng ta cần hệ sinh thái hỗ trợ, cần kế hoạch truyền thông bài bản, cần nuôi dưỡng cả nền tảng văn hóa lẫn tư duy chiến lược. Chúng ta đang thiếu một lớp nghệ sĩ vừa có cá tính sáng tạo mạnh mẽ, vừa có ý thức khai thác bản sắc Việt một cách tinh tế. Thiếu những nhà sản xuất dám đầu tư dài hạn vào chất lượng, cân bằng được, không chỉ chạy theo lượt view ngắn hạn.
Đặc biệt, những chiến lược truyền thông quốc tế hóa cũng rất quan trọng, để đưa sản phẩm nghệ thuật Việt ra đúng kênh, đúng đối tượng toàn cầu. Khi nào ta thôi “đánh bắt gần bờ” và bắt đầu đầu tư cho những “hành trình vượt đại dương” về văn hóa, thì khi ấy làn sóng Việt mới có thể hình thành thật sự", ông Hồng Quang Minh đưa ra quan điểm.

Sơn Tùng M-TP có nhiều ca khúc gây chú ý ở thị trường châu Á như "Chạy ngay đi", "Lạc trôi", "Hãy trao cho anh"... (Ảnh: Facebook nhân vật).
PGS. TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội - cho rằng, thành công trong xuất khẩu văn hóa, đặc biệt là âm nhạc, đòi hỏi một chiến lược bài bản. Lấy ví dụ về Hàn Quốc, ông Sơn cho rằng quốc gia này đã xây dựng không chỉ một hệ sinh thái văn hóa hỗ trợ, mà còn một mạng lưới xúc tiến quảng bá văn hóa mạnh mẽ để tạo dấu ấn và duy trì sức ảnh hưởng ở thị trường quốc tế.
Từ con đường của Hàn Quốc, Việt Nam cũng cần xem xét việc đầu tư cho hệ sinh thái này: Xây dựng chính sách hỗ trợ nghệ sĩ phát triển quốc tế, đến các hoạt động quảng bá văn hóa ra nước ngoài một cách chủ động hơn.
Ông Bùi Hoài Sơn cũng góp ý về giải pháp hỗ trợ vốn, trong đó Nhà nước nên có các quỹ hỗ trợ nghệ sĩ và dự án âm nhạc, giúp họ có nguồn tài chính để sản xuất âm nhạc chất lượng cao, tổ chức các chuyến lưu diễn quốc tế, hoặc tham gia các sự kiện âm nhạc lớn ở nước ngoài.
Việc tạo ra một môi trường tài chính thuận lợi, với các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào âm nhạc, cũng sẽ là một động lực lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp này.

Sự bùng nổ của các chương trình thực tế, concert về "anh trai" tạo sức sống cho thị trường âm nhạc Việt Nam hai năm gần đây (Ảnh: Vie Channel).
Ngoài ra, giới chuyên gia cho rằng, cần phải gỡ bỏ những nút thắt về tư duy trong cách nhìn nhận và quản lý âm nhạc. Các cấp quản lý cần thay đổi tư duy, từ việc xem âm nhạc chỉ là một hình thức giải trí sang nhìn nhận âm nhạc như một ngành công nghiệp văn hóa quan trọng, có khả năng đóng góp vào phát triển kinh tế và quảng bá hình ảnh quốc gia.
Cần khuyến khích sự sáng tạo và đa dạng trong âm nhạc, tạo điều kiện cho các thể loại âm nhạc mới nổi được phát triển và xuất hiện, từ đó tạo ra một thị trường âm nhạc phong phú và hấp dẫn hơn.
"Cuối cùng, một chính sách quảng bá văn hóa chủ động, tích cực sẽ rất cần thiết để đưa âm nhạc Việt ra thế giới. Cần phải có những chiến dịch quảng bá mạnh mẽ, không chỉ nhằm giới thiệu sản phẩm âm nhạc mà còn giới thiệu văn hóa Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Điều này không chỉ giúp nâng cao giá trị thương hiệu âm nhạc Việt mà còn khẳng định vị trí của chúng ta trong nền văn hóa toàn cầu", ông Bùi Hoài Sơn cho hay.






















