DNews

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội?

Thế Kha

(Dân trí) - Hà Nội chỉ kiểm soát được 1/3 lượng bụi mịn PM2.5 hình thành trong phạm vi nội đô; phần lớn khối lượng phát thải có nguồn gốc từ các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, thậm chí từ khu vực bên ngoài Việt Nam.

“Vấn đề ô nhiễm không khí ở Việt Nam ngày càng trở nên nghiêm trọng. Tại các đô thị lớn, tình trạng khói bụi và khí thải từ phương tiện giao thông chiếm tỷ trọng đáng kể, góp phần làm tăng tỷ lệ bệnh về đường hô hấp và tim mạch”, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chia sẻ với phóng viên Dân trí.

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội? - 1

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ (Ảnh: Mạnh Quân).

"Người dân Hà Nội đang phải hít thở bầu không khí độc hại”

Ông Thọ dẫn báo cáo do Ngân hàng Thế giới công bố năm 2022 đưa ra một bức tranh toàn diện về tình trạng ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội và khu vực phụ cận. Nghiên cứu cho thấy nồng độ bụi mịn PM2.5 ở nhiều thời điểm vượt xa ngưỡng an toàn được quy định trong Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia cũng như khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới.

“Điều này đồng nghĩa với việc người dân đang phải hít thở bầu không khí độc hại thường xuyên, tạo nên gánh nặng y tế và đe dọa đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo nhấn mạnh yêu cầu cấp bách về một loạt hành động phối hợp, thay vì những giải pháp đơn lẻ rời rạc”, ông Thọ cho hay.

Một trong những phát hiện quan trọng nhất nằm ở tính chất liên vùng của nguồn ô nhiễm. Hà Nội chỉ kiểm soát được khoảng 1/3 lượng bụi mịn PM2.5 hình thành trong phạm vi nội đô. Phần lớn khối lượng phát thải còn lại có nguồn gốc từ các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và thậm chí từ những khu vực bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

“Điều này lý giải vì sao mọi biện pháp kiểm soát trong giới hạn hành chính của thành phố Hà Nội đều khó đạt được hiệu quả mong muốn nếu thiếu sự tham gia đồng bộ của các địa phương khác. Cách tiếp cận mang tính vùng trở thành điều kiện tiên quyết để kiểm soát ô nhiễm”, ông Thọ nêu quan điểm.

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội? - 2

Hà Nội chỉ kiểm soát được khoảng 1/3 lượng bụi mịn PM2.5 hình thành trong phạm vi nội đô. Còn lại phần lớn khối lượng phát thải có nguồn gốc từ các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, thậm chí từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam (Ảnh: Mạnh Quân).

Các nguồn phát thải chủ yếu được nhận diện khá rõ ràng. Trong đó, hoạt động công nghiệp và sản xuất tại làng nghề chiếm khoảng 35% lượng bụi mịn; giao thông vận tải với lượng xe máy đông đảo, nhiều phương tiện cũ kỹ “đóng góp” gần 25%. Nông nghiệp tạo ra 20% thông qua phát thải amoniac từ phân bón, chăn nuôi, cùng với tập quán đốt rơm rạ. Hoạt động dân sinh chiếm gần 10%, chủ yếu đến từ việc đun nấu bằng củi, than hoặc các nguồn sinh khối khác.

Cấu trúc nguồn thải đa dạng và phân tán cho thấy đây là một bài toán phức tạp, không thể giải quyết bằng một biện pháp duy nhất, theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ.

Những dự báo ô nhiễm không khí đến năm 2030 càng làm nổi bật tính khẩn cấp của vấn đề. Mô hình GAINS được sử dụng trong nghiên cứu chỉ ra rằng nếu duy trì chính sách cũ, nồng độ bụi mịn có thể đạt ngưỡng 60 μg/m³, vượt gấp đôi quy chuẩn quốc gia.

Ngay cả khi thực hiện các cam kết trong Đóng góp quốc gia tự quyết (NDC 2020), chất lượng không khí vẫn chưa đạt được mức bảo vệ sức khỏe cộng đồng theo chuẩn mực quốc tế. Điều đó chứng tỏ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn, vượt xa phạm vi các kế hoạch hiện tại.

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội? - 3

Làng Mẫn Xá, tỉnh Bắc Ninh - cách không xa Hà Nội, luôn mịt mù khói bụi (Ảnh: Toàn Vũ).

Một lộ trình hành động tập trung vào 4 lĩnh vực đã được đề xuất trong báo cáo trên. Trong năng lượng và công nghiệp, theo ông Thọ, cần siết chặt giới hạn phát thải từ nhà máy nhiệt điện than và cơ sở sản xuất; đồng thời giảm dần việc sử dụng than, sinh khối trong các lò hơi, lò nung ở làng nghề.

Trong giao thông, Hà Nội phải đẩy nhanh quá trình điện hóa phương tiện, đặc biệt là xe máy, đi kèm các tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt và giải pháp giảm bụi đường.

Trong nông nghiệp, yêu cầu đặt ra là chấm dứt tình trạng đốt rơm rạ, cải thiện quản lý phân bón, khuyến khích tái chế phụ phẩm thành năng lượng sinh học. Còn trong quản lý chất thải, các quy định cấm đốt rác ngoài trời cần được thực thi nghiêm túc, song song với việc phát triển hệ thống thu gom, phân loại và tái chế hiện đại.

“Cần thiết lập cơ chế phối hợp cấp vùng đủ mạnh để kết nối các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng thời huy động sự hỗ trợ từ cấp trung ương. Bất kỳ nỗ lực đơn lẻ nào chỉ diễn ra trong phạm vi Hà Nội đều khó tạo ra chuyển biến bền vững. Để đạt được không khí sạch vào năm 2030, giải pháp phải mang tính toàn diện, đồng bộ và kiên định”, ông Thọ chỉ rõ.

Nguyên nhân gốc rễ của ô nhiễm

Nghiên cứu mới đây của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ chỉ ra rằng nguyên nhân gốc rễ của tình trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam đến từ cấu trúc phát triển kinh tế và mô hình tăng trưởng phụ thuộc nặng nề vào nhiên liệu hóa thạch. Năng lượng than và dầu vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất điện, trong khi giao thông vận tải gắn liền với hàng chục triệu xe máy và ô tô cũ kỹ thải ra khói độc.

Các khu công nghiệp và công trường xây dựng tạo nên nguồn phát thải liên tục, góp phần gia tăng mật độ bụi mịn trong bầu khí quyển. Những yếu tố này tạo ra một nền tảng ô nhiễm mang tính hệ thống, khó có thể kiểm soát trong thời gian ngắn.

Trong khi đó, quản lý chất thải lỏng lẻo làm tình hình thêm phức tạp. Tập quán đốt rác ngoài trời vẫn phổ biến ở nhiều vùng, trong khi ở nông thôn, việc đốt rơm rạ sau thu hoạch diễn ra rộng rãi. Khói bụi từ hoạt động này không chỉ gây ô nhiễm cục bộ mà còn lan tỏa ra các khu vực lân cận, thậm chí ảnh hưởng đến những đô thị lớn.

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội? - 4

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ tham gia một tọa đàm mới đây ở Báo Dân trí (Ảnh: Mạnh Quân).

Ô nhiễm trong nhà xuất phát từ việc sử dụng củi, than, khí dầu hóa lỏng cho đun nấu, cộng với thói quen hút thuốc lá trong gia đình, trở thành mối đe dọa trực tiếp cho sức khỏe của phụ nữ và trẻ nhỏ.

“Trẻ em trở thành nhóm nạn nhân thầm lặng. Cơ quan hô hấp và hệ miễn dịch chưa hoàn thiện khiến các em dễ bị tổn thương trước tác động của bụi siêu mịn PM2.5. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng môi trường ô nhiễm làm gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh về đường hô hấp, từ viêm phổi, hen suyễn cho đến nhiễm trùng cấp tính. Khoảng 7% phần trăm số ca tử vong ở trẻ em tại Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với ô nhiễm không khí”, nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ chỉ rõ.

Khi cơ thể phải hít thở không khí độc hại trong thời gian dài, những ảnh hưởng đối với sự phát triển thể chất, trí tuệ và tâm lý là điều khó tránh khỏi. Phụ nữ mang thai hít thở bầu không khí ô nhiễm dễ đối mặt với nguy cơ sinh non hoặc sinh con nhẹ cân. Trẻ em ra đời trong điều kiện đó thường có sức đề kháng yếu, dễ mắc bệnh và kém phát triển so với bạn bè cùng trang lứa.

Đây là vòng xoáy tác động liên thế hệ, khi sức khỏe kém của thế hệ trẻ ảnh hưởng đến năng lực lao động, học tập và phát triển xã hội trong tương lai, theo ông Thọ.

Ở cấp độ cá nhân, mỗi người dân cần có ý thức tự bảo vệ bằng cách hạn chế ra ngoài trong những ngày chỉ số chất lượng không khí ở mức nguy hiểm, sử dụng khẩu trang có khả năng lọc bụi mịn và trang bị máy lọc không khí trong gia đình nếu có điều kiện.

Vì sao khó kiểm soát bầu không khí ô nhiễm độc hại ở Hà Nội? - 5

Người dân nên sử dụng khẩu trang khi ra ngoài đường những ngày ô nhiễm không khí cao (Ảnh: Mạnh Quân).

Ở cấp độ chính sách, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ cho rằng Việt Nam cần từng bước rời bỏ sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, thúc đẩy giao thông công cộng xanh và phát triển phương tiện chạy điện. Tập quán đốt rác và rơm rạ cần bị loại bỏ thông qua sự kết hợp giữa chế tài nghiêm khắc và hỗ trợ người dân áp dụng giải pháp thay thế.

Ông Thọ khẳng định việc bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương đòi hỏi sự ưu tiên đặc biệt. Các trường học, bệnh viện và trung tâm y tế cần được trang bị hệ thống thông gió cùng thiết bị lọc không khí đạt chuẩn. Hệ thống quan trắc phải được mở rộng và hiện đại hóa để cung cấp dữ liệu minh bạch, kịp thời cho người dân, giúp họ chủ động ứng phó. 

Điện khí hóa giao thông sẽ cải thiện chất lượng không khí

Nghiên cứu mới công bố của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ dẫn chứng dữ liệu khảo sát chỉ ra rằng mỗi xe máy chạy xăng tại Việt Nam thải ra trung bình 66g CO₂ trên mỗi km. Giả định một xe máy di chuyển trung bình 15-30km/ngày, lượng phát thải hằng năm dao động 0,36-0,73 tấn CO₂. Do đó, chuyển đổi một triệu xe máy sang sử dụng điện có thể giảm từ 0,36 đến 0,73 triệu tấn CO₂ mỗi năm.

Con số đó sẽ đóng góp trực tiếp vào việc thực hiện mục tiêu giảm phát thải theo cam kết quốc tế, đồng thời tạo ra ảnh hưởng tích cực đến chính sách năng lượng và giao thông xanh tại Việt Nam.

Vị chuyên gia môi trường khẳng định ảnh hưởng rõ rệt nhất của điện khí hóa giao thông là cải thiện chất lượng không khí tại các đô thị lớn. Xe điện loại bỏ phát thải trực tiếp từ ống xả, không sinh ra PM2.5, NOx, VOCs, và các chất ô nhiễm khác.

Việc thay thế xe máy cá nhân và xe buýt công cộng bằng xe điện tại Hà Nội và TPHCM có thể giúp giảm nồng độ bụi mịn và các chất độc hại, từ đó giảm chi phí xã hội do bệnh tật liên quan đến ô nhiễm không khí. Tác động mang lại lợi ích sức khỏe cộng đồng và hỗ trợ quá trình xây dựng các thành phố xanh, giảm áp lực lên hệ thống y tế và nâng cao chất lượng sống.