Những ký ức không thể nào quên về hợp tác lao động tại Liên Xô
Vào đầu thập niên 1980, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế và ngoại giao, Việt Nam đã ký kết hiệp định hợp tác lao động với các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), bao gồm Liên Xô (cũ). Chương trình này không chỉ giúp hàng vạn lao động Việt Nam có cơ hội làm việc tại nước ngoài, cải thiện đời sống kinh tế, mà còn đóng góp vào việc tăng nguồn thu ngoại tệ và thúc đẩy tình hữu nghị giữa các quốc gia.
Theo các hiệp định đã ký, lao động Việt Nam sang làm việc tại các nước XHCN đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng về công việc và sinh hoạt, đồng thời có cơ hội tiếp cận với nền khoa học công nghệ tiên tiến. Nguồn lực từ chương trình này đã góp phần giảm áp lực kinh tế trong nước và mở ra những con đường mới cho sự phát triển của lao động Việt Nam.
Trong những ngày này, dõi theo thông tin nước Nga tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, tôi bồi hồi nhớ lại hành trình lao động của mình cách đây hơn ba thập kỷ. Ngày ấy, sang đến Nga, điều đầu tiên gây ấn tượng mạnh với tôi là vẻ đẹp tráng lệ của một đất nước rộng lớn, cùng với nền khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc. Khí hậu mát lạnh của trời Âu, khác hẳn với quê nhà, cùng sự phong phú của thực phẩm như bơ, sữa, trứng, bánh mì, sữa chua… đã để lại trong tôi cảm giác vừa lạ lẫm, vừa thích thú.

Máy bay quân sự duyệt đội hình bay ngang qua Quảng trường Đỏ ở Moscow, Nga, tháng 5/2025 (Ảnh minh họa: Xinhua).
Một điều khiến tôi ấn tượng sâu sắc khi ở Liên Xô (cũ) là sự hiện diện của công nhân Việt Nam ở hầu hết các tỉnh thành của 15 nước cộng hòa và liên bang Nga rộng lớn, trải dài từ Saint Petersburg - Moscow - Novosibirsk đến Vladivostok. Điều này không chỉ minh chứng cho quy mô của chương trình hợp tác lao động mà còn phản ánh sự tổ chức chặt chẽ và chuyên nghiệp của các cán bộ trong Cục hợp tác quốc tế về lao động thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ). Tôi nghĩ họ hẳn đã sử dụng một bản đồ chi tiết, duy trì mối liên hệ chặt chẽ với các địa phương để tối ưu hóa sự phân bổ lao động. Sự chuyên nghiệp này đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo sự thành công của chương trình và phát triển lâu dài mối quan hệ hợp tác lao động.
Là đội trưởng trong đoàn lao động Việt Nam tại Liên Xô (cũ), tôi làm việc tại một nhà máy gốm sứ ở ngoại ô Moscow. Cuộc tuyển chọn lao động thời đó được thực hiện một cách minh bạch, đặc biệt đối với cán bộ đội trưởng phiên dịch. Chúng tôi phải tham gia lớp học đội trưởng và trải qua hai cuộc thi quan trọng về quản lý và ngoại ngữ do Bộ tổ chức. Thông tin tuyển dụng được Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Hà Nội (nay là Sở Nội vụ) đăng trên báo Hà Nội Mới, đảm bảo tính công khai và cơ hội đồng đều cho mọi ứng viên.
Cuộc sống thời đó không chỉ xoay quanh công việc tại nhà máy, mà còn gắn liền với hoạt động kinh doanh tại các chợ. Ký ức về các "ốp" (khu chợ) luôn hiện hữu trong trí nhớ tôi. Đây là những địa điểm giao thương sầm uất, nơi tập trung nhiều lao động Việt Nam cùng nhau buôn bán, làm ăn để kiếm thêm thu nhập và duy trì sự kết nối cộng đồng.
Ngoài công việc lao động và kinh doanh, tôi nhớ đến sự giúp đỡ tận tình của những người bạn Nga. Từ đời sống ở ký túc xá đến công việc tại các phân xưởng sản xuất, họ luôn sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi một cách kỹ lưỡng. Các buổi gặp gỡ, giao lưu đầy ắp sự thân tình, ấm áp, gần gũi như người trong gia đình. Tình bạn và sự sẻ chia thời đó đã làm dịu đi những khó khăn, thử thách nơi đất khách quê người, để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên.
Tôi cũng không quên sự tận tâm và trách nhiệm của ông Nguyễn Mạnh Cầm (nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao), lúc đó là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Liên Xô. Tôi nhớ ông đã đến tận "ốp" khi xảy ra vụ đánh nhau giữa lao động Việt Nam với một số trường hợp cực đoan ở địa phương, để trực tiếp tham gia giải quyết sự việc. Các cán bộ trong Ban quản lý lao động tại Đại sứ quán Việt Nam ở Moscow thời ấy không chỉ đảm bảo công việc quản lý, mà còn giúp đỡ lao động Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, từ các vấn đề sinh hoạt hàng ngày đến những tình huống khẩn cấp. Các cuộc họp giao ban định kỳ do Đại sứ quán chủ trì là cơ hội quý báu để chúng tôi bàn bạc về tình hình lao động ở các "ốp", thảo luận những khó khăn và đưa ra giải pháp kịp thời.
Đồng thời, chúng tôi cũng muốn nhân dịp này tri ân các lãnh đạo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nói chung, Cục hợp tác quốc tế về lao động nói riêng - những người đã đặt các viên gạch đầu tiên xây dựng nền tảng hợp tác lao động quốc tế. Đứng đầu là ông Trần Đình Hoan - Bộ trưởng thời đó, người đã có những định hướng chiến lược quan trọng, giúp mở ra cơ hội hợp tác lao động với các nước. Tiếp đó là ông Vũ Lâm Thời - lúc ấy là Cục phó Cục hợp tác quốc tế về lao động, một người đầy tận tụy và tâm huyết, góp phần không nhỏ trong việc xây dựng các chương trình hợp tác.
Trong suy nghĩ của tôi, chính tầm nhìn và sự tận tâm của các cán bộ quản lý ngành Lao động thời đó đã tạo điều kiện cho lao động Việt Nam vươn xa, không chỉ tại Liên Xô (cũ) mà còn trên khắp thế giới, để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử hợp tác lao động quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn đất nước chúng ta khó khăn sau chiến tranh và bị phương Tây cấm vận kinh tế, Liên Xô (cũ) tiếp tục là đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam, và hàng vạn lao động Việt Nam đã sang Liên Xô (cũ) làm việc theo các hiệp định hợp tác giữa hai nước. Việc này không chỉ góp phần cải thiện đời sống kinh tế cho người lao động và gia đình, mà còn là cơ hội để lao động Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi các kỹ năng quan trọng từ một đất nước có nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Ngoài ra, Liên Xô cũng đã đào tạo hàng nghìn sinh viên Việt Nam tại các trường đại học và viện nghiên cứu uy tín của họ, tạo nền tảng vững chắc cho nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Những hỗ trợ này đã thể hiện tình hữu nghị sâu sắc và sự đồng hành quý báu, góp phần giúp Việt Nam từng bước vượt qua khó khăn và phát triển bền vững trong thời bình.
Sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ) trong giai đoạn kể trên đã tạo cơ hội cho thế hệ trẻ Việt Nam vươn lên, hình thành những cá nhân xuất sắc, nhiều người là nhà khoa học, doanh nhân hàng đầu Việt Nam hiện nay.
Hơn ba thập kỷ đã trôi qua, nhưng ký ức về những năm tháng lao động tại Liên Xô (cũ) vẫn nguyên vẹn trong tâm trí tôi. Dịp này, với chuyến thăm chính thức Liên bang Nga và dự Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, từ ngày 8-11/5, của Tổng Bí thư Tô Lâm, phu nhân Ngô Phương Ly cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, tôi tin tưởng rằng mối quan hệ Việt - Nga sẽ tiếp tục bền chặt và mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới, góp phần vào sự phát triển chung của hai quốc gia.
Tác giả: Ông Lý Văn Vinh là Tiến sĩ quản lý đô thị; nguyên thư ký Bộ trưởng Bộ Xây dựng; nguyên Giám đốc Cung triển lãm kiến trúc, quy hoạch quốc gia.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!