Tâm điểm
Tô Kiên

72 giờ khẩn cấp trong lũ

Năm 2025 này, chúng ta một lần nữa thấm thía câu “nhất thủy, nhì hỏa”. Trong thời gian ngắn, sau miền Bắc, người dân miền Trung và Tây Nguyên hết lần này đến lượt khác quay cuồng trong mưa lũ, ngập lụt, lốc xoáy, sạt lở. Trong đêm 19/11, theo tường thuật trên báo Dân trí, hai con sông tại Đắk Lắk và Khánh Hòa đã xuất hiện lũ vượt mức lịch sử các năm 1993 và 1986. Nhiều khu dân cư bị cô lập, và các lực lượng chức năng đã trắng đêm sơ tán dân, triển khai công tác cứu hộ. Trên mạng xã hội, chúng ta xót xa khi nhìn thấy cảnh các khu dân cư chìm trong nước, nhiều người kêu cứu.

72 giờ khẩn cấp trong lũ - 1

Vùng rốn lũ tại phía Đông tỉnh Gia Lai (Bình Định cũ) (Ảnh: Phạm Hoàng).

Câu hỏi lớn: Trong thiên tai khẩn cấp, cần dồn lực vào thời điểm nào và ưu tiên nguồn lực ứng cứu vào đâu? Đây là nan đề “tối ưu khẩn cấp”, khi mỗi quyết định ở thời khắc sống còn đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. Giữa cảnh tứ bề ngập nước, điểm tựa đầu tiên vẫn là lực lượng chức năng tại chỗ, lực lượng tăng cường từ trung ương và các đội cứu hộ tình nguyện. Quan trọng không kém là khả năng ra quyết định đúng nơi, đúng lúc, đúng người, dựa trên dữ liệu thời gian thực. Từ kinh nghiệm quốc tế, tôi đúc rút bốn nguyên tắc cơ bản sau.

Đầu tiên là nguyên tắc “72 giờ vàng” – được nhiều nước áp dụng cho nhiều loại thiên tai như động đất, sóng thần, lũ quét hay lốc xoáy.

Ba ngày đầu kể từ khi thiên tai ập tới và đe dọa tính mạng là khoảng thời gian sống còn, gần như quyết định hoàn toàn khả năng sống sót, bởi sau mốc 48–72 giờ, tỷ lệ sống giảm xuống rất nhanh. Khi cả khu dân cư hay thậm chí gần như cả thành phố bị nước lũ nhấn chìm, quy trình quản trị ứng phó khẩn cấp “72 giờ vàng” cần được kích hoạt và tập trung nguồn lực cho sinh tồn – cứu mạng sống, duy trì năng lượng và liên lạc. Kinh nghiệm quốc tế nhấn mạnh “cứu mạng trước cứu sinh kế”. Nhật và nhiều nước lập ma trận ưu tiên tập trung vào những “hạt nhân sống” để cứu được nhiều người nhất.

Việt Nam đã có luật và kế hoạch phòng chống thiên tai, nhưng cần thêm các hướng dẫn cụ thể để xác định ưu tiên trong khẩn cấp, nhấn mạnh và tập trung vào “72 giờ vàng”. Chúng ta cần bổ sung hệ thống tiêu chí khoa học để lựa chọn ưu tiên, trong bối cảnh nguồn lực giới hạn nhưng lại cần triển khai trên diện rộng nhiều tỉnh, thành.

Nguyên tắc thứ hai là ưu tiên nguồn lực vào những trụ cột phải giữ bằng mọi giá.

Cân nhắc lợi ích một cách toàn diện là nan đề nhưng cần thiết. Chúng ta cần các công cụ mô phỏng quy trình điều động nguồn lực liên tỉnh: khu vực nào ưu tiên cứu hộ, sơ tán; khu vực nào chỉ cần hỗ trợ lương thực… Ở đây không thể chia đều theo ranh giới hành chính, mà phải tính theo mức độ ảnh hưởng dây chuyền. Những đô thị đầu mối về logistics, y tế hay năng lượng; những con đường tiếp vận huyết mạch – thậm chí là độc đạo – là các trụ cột sống còn.

Nhật Bản sau thảm họa động đất và sóng thần Tohoku 2011 đã ưu tiên bảo vệ “hệ trục vận hành vùng” – các đô thị có khả năng phục hồi nhanh và lan tỏa hỗ trợ. Hà Lan cũng không chống nước biển bằng những con đê đơn lẻ, mà bằng một mạng lưới đê nhiều tầng bậc; chuyển hẳn từ tư duy “cố thủ” sang “sống chung”, chủ động thiết lập các kênh phụ và vùng cho phép ngập cục bộ khi nước biển dâng cao để giảm tải cho toàn hệ thống.

72 giờ khẩn cấp trong lũ - 2

Thuyền thúng của người dân được trưng dụng để hỗ trợ cứu hộ ở phường Phú Yên (tỉnh Đắk Lắk) (Ảnh: Nam Anh).

Miền Trung đất hẹp, lũ thường “đánh gãy” liên kết chuỗi đô thị. Trong chuỗi đô thị miền Trung, Đà Nẵng giữ vai trò trung tâm logistics với sân bay, cảng và năng lực hậu cần, nên nếu ưu tiên nguồn lực tại đây có thể nhân hiệu quả cho toàn vùng. Còn Huế và Hội An – những đô thị di sản thế giới – lại mang trọng trách khác: không chỉ cứu người và tài sản mà còn cứu giữ di sản – “nồi cơm Thạch Sanh” của du lịch và sinh kế địa phương.

Khi thiếu bản đồ năng lực vùng và hướng dẫn nơi nào phục hồi nhanh, nơi nào có thể tạm hy sinh, ứng phó sẽ rơi vào thế bị động, còn nguồn lực thì dàn mỏng. Công nghệ số chính là chìa khóa. Với bản đồ năng lực ứng phó cấp vùng, ta có thể nhanh chóng nhận diện khu vực phục hồi nhanh, khu vực tạm làm vùng “xả tràn” phân lũ, cùng phương án sơ tán dân phù hợp. JICA từng khuyến nghị Việt Nam xây dựng bản đồ số rủi ro (hazard map) từ vùng tới chi tiết. Hạ tầng cứu hộ cần được nhìn như một chuỗi liên hoàn, nơi đầu tư nhỏ nhưng đúng chỗ có thể cứu nhiều người hơn đầu tư lớn nhưng sai chỗ hoặc giẫm chân lên nhau.

Nguyên tắc thứ ba là tập trung hạ tầng và nguồn lực vào các trung tâm đầu mối liên kết.

Sau sóng thần 2011, Nhật Bản xây dựng các hub (trung tâm) cứu hộ nhỏ trong khu dân cư – trường học, bưu điện, nhà ga – trang bị năng lượng mặt trời, nước dự trữ và radio độc lập, giữ kết nối tối thiểu khi mất điện. Các hub này đóng vai trò như những “huyệt đạo” mà khi kích hoạt sẽ lưu thông và lan tỏa nguồn sống cho cả vùng. Việt Nam có thể triển khai mô hình tương tự thành “điểm an toàn cộng đồng”, vừa trú ẩn, vừa tiếp tế, đồng thời là mắt xích thông tin.

Kinh nghiệm khu vực cũng gợi ý hướng đi: Philippines (2020) dùng bản đồ phương tiện cứu hộ thời gian thực để điều phối liên tỉnh, tránh thừa – thiếu; Bangladesh vận hành lớp học và trạm xá nổi di động do cộng đồng tự quản, tạo mô hình tự chủ hiệu quả.

Trong mưa lũ, giao thông bị chia cắt, sạt lở, đường ngập và cầu hư khiến cứu trợ tắc nghẽn, nhất là tại các tuyến huyết mạch. Mọi tiếp ứng dồn sang đường thủy, dẫn đến ùn tắc tại các điểm tập trung. Đây là nút thắt lớn trong phân bổ tài nguyên.

Về lâu dài, nhiều trạm trú ẩn ở miền Trung – tức các hub nói trên – vẫn chưa đạt chuẩn về điện dự phòng và nước sạch. Vì thế, các xã cần có một hub độc lập và phát huy “5 tại chỗ” (chỉ huy, nhân lực, phương tiện, vật tư, hậu cần) luôn tại đây. Quan trọng nhất là trang bị nhu yếu phẩm, máy phát điện và trạm thông tin.

Nguyên tắc cuối cùng là dựa vào dữ liệu lớn và huy động nguồn lực cộng đồng.

Ngày nay, công nghệ dữ liệu lớn và việc huy động nguồn lực cộng đồng cho phép con người ra quyết định ứng cứu nhanh và chính xác hơn. Nếu trước đây các nước phát triển chủ yếu dựa vào dữ liệu từ hệ thống cảm biến, thì hiện nay đã có thêm một lớp thông tin mới. Ở Anh, chẳng hạn, dự án “Smart Flood Resilience – năng lực chống lũ thông minh” kết hợp dữ liệu đo đạc với tín hiệu từ mạng xã hội để nhận diện và ưu tiên xử lý khu vực ngập sâu mà không phải chờ báo cáo thủ công. Ở Việt Nam, khi nhiều khu vực đồng thời cảnh báo bão đỏ, cần nền tảng dữ liệu đa nguồn, tích hợp và thời gian thực để điều phối thông minh, hỗ trợ hoạch định ngân sách khẩn cấp và lập kế hoạch phục hồi hiệu quả. Gần đây, sáng kiến của hai bạn trẻ làm ra trang web cứu trợ khẩn cấp cũng dựa trên nguyên tắc huy động nguồn lực từ cộng đồng.

Lũ không chỉ phơi bày sức tàn phá mà còn thử thách khả năng ra quyết định nhanh và những lựa chọn tối ưu. Công nghệ và khoa học dữ liệu có thể hỗ trợ mạnh, thay vì những quyết định cảm tính. Không ai cứu được tất cả, nhưng nếu biết ưu tiên đúng, có thể cứu nhiều nhất với nguồn lực hiện có. Giữa dòng nước xoáy, làm sao để tối ưu việc giữ người, giữ hạ tầng và bảo toàn năng lượng cho sinh kế?

Khi nước rút, điều còn lại không chỉ là bùn đất mà còn là câu hỏi: ta đã tận dụng 72 giờ vàng thế nào? Cộng đồng sẽ vực dậy ra sao trong dài hạn?

Chuỗi lũ vừa qua chứng kiến bao nỗ lực ứng cứu tuyệt vời, tình người, và cả nhiều cảnh thắt lòng. Tôi nhớ cảnh người phụ nữ ngồi khóc giữa cửa hàng đồ chơi mới mở bị ngập bùn. Nếu may mắn, chị nhận được chút tiền và quà, nhưng hàng vẫn thành núi rác. Thay vì chỉ quyên góp, các nhóm xã hội có thể tổ chức “mua hàng chịu lũ” – lọc từ đổ nát, không mới nhưng giàu sẻ chia – vừa giúp sinh kế thiết thực và lâu dài, giảm rác, vừa lan tỏa tinh thần đùm bọc.

Lũ sẽ qua và có thể trở lại năm sau, hoặc năm sau nữa. Công cụ khoa học, hướng dẫn và quy chuẩn về tối ưu nguồn lực là những vấn đề cần bàn để chuẩn bị cho tương lai.

Giữa lũ dữ, điều quan trọng không chỉ là sức người hay phương tiện, mà là năng lực quản trị với các công cụ công nghệ và tầm chiến lược trong phân bổ nguồn lực, cùng những tấm lòng.

Tác giả: TS.KTS Tô Kiên hiện là quy hoạch sư cao cấp kiêm quản lý tại Tập đoàn Tư vấn Phát triển Hạ tầng Eight-Japan (Tokyo) và giảng viên cao cấp Trường Đại học UEH (TP.HCM). Ông tốt nghiệp Kiến trúc sư (Quy hoạch) tại Việt Nam, Thạc sĩ Thiết kế Đô thị tại Đức, Tiến sĩ Kiến trúc tại Nhật Bản.

Với gần 30 năm sự nghiệp, ông đã công bố hơn 100 bài báo chuyên ngành và nhiều bài viết đại chúng xoay quanh các chủ đề phát triển đô thị bền vững, đồng chủ trì các dự án quy hoạch – thiết kế bền vững tại nhiều quốc gia, và nhận nhiều giải thưởng trong và ngoài nước.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!