Năng suất lao động Việt Nam thua kém Thái Lan: Hiểu thế nào cho đúng?
Ngân hàng Thế giới (WB) mới đây vừa công bố một báo cáo có tựa đề tiếng Anh "Promoting Innovative Entrepreneurship in Viet Nam" (tạm dịch: Thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo doanh nghiệp ở Việt Nam).
Báo cáo nêu bật những thành tựu kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình GDP bình quân đầu người ở mức 5,3%, cao hơn hầu hết các nền kinh tế trong khu vực.
Thành tựu này có được nhờ sự đóng góp của ba nhân tố chính là sự gia tăng tích lũy vốn, lực lượng lao động dồi dào và tăng trưởng năng suất.
Tốc độ gia tăng năng suất lao động ở Việt Nam khá ấn tượng và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực trong giai đoạn 2010-2021. Thế nhưng nếu tính theo giá trị tuyệt đối thì năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Theo ước tính của Tổ chức Năng suất châu Á (AFO), năng suất lao động của Việt Nam chỉ đạt mức 6,4 đô-la trên một giờ làm việc, chỉ bằng 2/3 Philippines, và không bằng 1/2 so với Thái Lan và 1/10 so với Singapore.
Các số liệu trên không hoàn toàn là mới, nhưng ngay khi được Ngân hàng Thế giới công bố, chúng đã tạo ra các cuộc tranh luận khá sôi nổi trên mạng xã hội. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn nghĩ là Việt Nam giàu hơn Philippines và cũng không thua kém Thái Lan bao nhiêu nên việc Việt Nam có năng suất lao động thấp như vậy dường như là một thông tin gây sốc. Có khá nhiều ý kiến nghi ngờ về mức độ đáng tin cậy của số liệu cũng như các nhận định rằng số liệu trên không phản ánh đúng năng lực người lao động, hay thậm chí coi nó là vô nghĩa vì "không có chuyện một người Singapore làm việc hiệu quả bằng mười người Việt Nam được" (trích một ý kiến tôi đọc được trên mạng).
Thế nhưng, thực tế là nhiều người đã không tìm hiểu kỹ khái niệm năng suất lao động (NSLĐ) là gì trước khi đưa ra ý kiến. NSLĐ hiểu một cách đơn giản là sản lượng (hoặc giá trị gia tăng) chia cho nhân tố đầu vào lao động, và đầu vào lao động thường được sử dụng trong các ước tính là số lượng người lao động hoặc số giờ lao động.
Khái niệm này có thể tính cho một doanh nghiệp, một ngành hay một quốc gia, tức là có thể được áp dụng trên cả phương diện vi mô và vĩ mô. Nhìn chung, hầu hết chúng ta đều hiểu các hàm ý của NSLĐ trong một doanh nghiệp hay một ngành, nhưng khi áp dụng NSLD ở quy mô quốc gia thì khái niệm này không hoàn toàn dễ hiểu. Khi đo lường ở phạm vi quốc gia thì NSLĐ sẽ được đo bằng GDP chia cho tổng số người làm việc trong lực lượng lao động (hoặc tổng số giờ làm việc trong nền kinh tế). Dễ thấy là do đó chỉ tiêu này có sự tương quan chặt chẽ với chỉ tiêu GDP trên đầu người.
Điều quan trọng cần hiểu là nội hàm của khái niệm này. Sự khác biệt về năng suất lao động giữa các quốc gia đã bao gồm những khác biệt giữa các quốc gia về mặt chất lượng lao động, độ thâm dụng của vốn (tức là tỷ lệ vốn trên lao động), cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu dân số theo độ tuổi...Việc NSLĐ của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan và Singapore, không có nghĩa là một người lao động Việt Nam tạo ra số lượng sản phẩm thấp hơn nhiều so với người lao động làm một công việc tương tự ở Thái Lan hay Singapore. Nó chỉ có nghĩa là xét một cách trung bình, một người lao động Việt Nam trong 1 giờ làm việc, với điều kiện về vốn và mức độ đào tạo hiện có, sẽ tạo ra mức sản lượng (hay giá trị gia tăng) chỉ bằng 1/2 ở Thái Lan và bằng 1/10 ở Singapore.
Vậy sự khác biệt về NSLĐ như vậy là từ đâu? Hay nói cách khác, đâu là những yếu tố dẫn tới việc NSLĐ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực? Có thể kể tên bốn nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất và cũng là quan trọng nhất là sự khác biệt về tỷ lệ thâm dụng vốn trong nền kinh tế, tức là mức độ vốn trung bình mà một lao động sử dụng. Việt Nam có tỷ lệ vốn trên lao động thấp hơn nhiều so với các nước nói trên nên NSLĐ của người lao động VN cũng thấp hơn nhiều.
Thứ hai, là sự thua kém về chất lượng lao động, tức là về mặt đào tạo, kỹ năng.
Thứ ba là ở yếu tố đổi mới, sáng tạo: với hai quốc gia có cùng thâm dụng vốn và cùng đầu vào lao động, thì nước nào có đổi mới sáng tạo nhiều hơn sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn tức là sẽ có NSLĐ cao hơn.
Thứ tư thì có thể coi là do cơ cấu nền kinh tế, chẳng hạn cơ cấu ngành của Việt Nam vẫn thiên về lao động kém kỹ năng và không cần nhiều vốn còn Singapore có cơ cấu ngành chủ yếu dựa trên lao động nhiều kỹ năng và sử dụng nhiều vốn.
Việc hiểu chính xác khái niệm NSLĐ sẽ giúp ích để chúng ta có các thảo luận đúng trọng tâm, tránh các tranh luận kiểu "ông nói gà, bà nói vịt" hay "thầy bói xem voi" khi người tranh luận không căn cứ vào định nghĩa của khái niệm, mà tự hiểu theo cách của riêng họ. Kết quả là các nhận định của họ thường không dựa vào số liệu hay lý thuyết, mà căn cứ chủ yếu vào cảm nhận của họ, hoặc những ví dụ nào đó mà họ từng gặp (kiểu như "tôi từng làm việc với người Thái Lan, thấy họ làm chậm hơn tôi nhiều nên không thể có chuyện năng suất lao động Việt Nam kém Thái Lan tới mức như vậy được").
Gia tăng NSLĐ là điều rất cần thiết, như là một động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và trở thành nước thu nhập cao. Nhận thức rõ điều này, vào tháng 11/2023, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 1305/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Quốc gia về Tăng năng suất lao động đến năm 2030. Mục tiêu cụ thể của Chương trình là thúc đẩy tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 6,5%/năm. Thế nhưng, nếu chỉ tập trung vào gia tăng năng suất lao động thì chưa đầy đủ.
Thực tế là với nhiều nhà kinh tế, chỉ tiêu NSLĐ là một chỉ tiêu không thực sự có tính thực thi cao và tự thân nó không phản ánh được quá nhiều điều, do có nhiều biến số ẩn ở bên trong nó, từ độ thâm dụng vốn, chất lượng lao động cho tới cơ cấu ngành nghề… Sự thay đổi của NSLĐ nhìn chung có ý nghĩa nhiều hơn khi được xem xét theo khung thời gian (của cùng một quốc gia) trong khi sự so sánh khác biệt về NSLĐ giữa các quốc gia thường không có nhiều ý nghĩa lắm.
Cùng là chỉ tiêu năng suất nhưng trong kinh tế học cả ở cấp vĩ mô và vi mô, các nhà kinh tế thường quan tâm nhiều hơn tới chỉ tiêu tăng trưởng năng suất nhân tố tổng hợp (total factor productivity trong tiếng Anh, viết tắt là TFP).
Hiểu một cách đơn giản thì tăng trưởng TFP là sự gia tăng năng suất từ các yếu tố không phải là vốn và lao động. Đây được coi là yếu tố quan trọng và có tác đông lâu dài tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Báo cáo nêu trên của Ngân hàng Thế giới cũng chỉ rõ việc Việt Nam có tốc độ tăng trưởng TFP chậm chạp trong các năm gần đây, với tăng trưởng TFP trung bình ở cấp độ doanh nghiệp chỉ đạt chưa đến 2% trong giai đoạn từ 2014 tới 2018, thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam nhìn chung chủ yếu vẫn dựa vào sự gia tăng về số lượng của các yếu tố đầu vào là vốn và lao động, trong khi tăng trưởng TFP chỉ đóng góp 1,5 điểm phần trăm trong giai đoạn 2015-2019.
Sự yếu kém trong gia tăng TFP ở các doanh nghiệp chính là nút thắt cho gia tăng năng suất ở Việt Nam. Ở cấp độ doanh nghiệp, điều này khiến Việt Nam không có nhiều các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao trong các ngành có hàm lượng chất xám cao hay có mức độ liên kết chuỗi toàn cầu cao.
Có một hiện tượng phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam mà nhiều nghiên cứu đã chỉ ra đó là sự thiếu vắng của các doanh nghiệp tư nhân có quy mô trung bình (hiện tượng mà trong tiếng Anh gọi là missing middle).
Ở cấp độ quốc gia, tốc độ tăng trưởng TFP thấp hoặc không ổn định có nghĩa là Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức trong tương lai nếu khả năng thu hút và tích lũy vốn bị chậm lại, trong khi sắp qua thời kỳ dân số vàng, với lượng lao động dồi dào.
Vậy làm thế nào để thúc đẩy tăng trưởng NSLĐ cũng như tăng trưởng TFP? Trong phạm vi bài báo này, khó có thể đưa ra các giải pháp đầy đủ, nhưng tôi xin nhấn mạnh hai ý chính.
Ý thứ nhất, và đây cũng là nội dung chính trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới, đó là thúc đẩy sự đóng góp của các doanh nghiệp khởi nghiệp có tính đổi mới sáng tạo. Sự gia tăng năng suất này có thể được tạo ra nhờ gia tăng hiệu quả các các doanh nghiệp thông qua áp dụng công nghệ mới, cũng như gia tăng sự tiếp cận tới thị trường và tài chính, tạo ra các cơ chế thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp có năng suất cao phát triển và di chuyển nguồn lực từ các doanh nghiệp và ngành nghề có năng suất thấp sang các doanh nghiệp và ngành nghề có năng suất cao.
Ý thứ hai, theo tôi là thúc đẩy sự gia tăng chất lượng lao động, tăng cường đào tạo và đào tạo lại người lao động các kỹ năng mới, giúp họ có thể tham gia tích cực và chủ động vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tác giả: TS Vũ Hoàng Linh nhận bằng Tiến sĩ về Kinh tế Ứng dụng tại Đại học Minnesota (Mỹ) vào năm 2008 và hiện công tác tại Chương trình liên kết Đại học Swinburne tại Việt Nam trực thuộc Đại học FPT. Ông có nhiều năm làm việc tại Ngân hàng Thế giới và các trường Đại học ở Việt Nam. Ông cũng từng tham gia tư vấn và nghiên cứu cho nhiều tổ chức trong và ngoài nước, trong các mảng kinh tế phát triển, kinh tế vi mô ứng dụng…
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!