Phương châm "không để ai bị bỏ lại phía sau" trong văn kiện Đại hội Đảng
(Dân trí) - “Không để ai bị bỏ lại phía sau” cần được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu mà bằng chính sách rõ ràng, mục tiêu cụ thể, lộ trình thực thi nghiêm túc và cơ chế giám sát minh bạch, có trách nhiệm.
Trong bài viết gửi góp ý cho Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV, TS Phạm Ngọc Toàn - Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước và Lao động nhấn mạnh, để hiện thực hóa khẩu hiệu “không để ai bị bỏ lại phía sau” chính sách an sinh xã hội (ASXH) trong chiến lược phát triển 10 năm tới cần được cụ thể hóa bằng chiến lược đầu tư vào con người, thiết kế theo hướng bao trùm, đa tầng, bền vững và gắn với chuyển đổi số – coi con người là trung tâm của phát triển. Báo Dân trí trân trọng giới thiệu bài viết sau:
“Trong quá trình chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, một trong những chủ đề thu hút nhiều ý kiến góp ý sâu sắc từ giới chuyên gia, cán bộ tham mưu và các tầng lớp nhân dân là định hướng phát triển hệ thống ASXH toàn diện, hiện đại và bao trùm.

Sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong giảm nghèo, mở rộng giáo dục, y tế, trợ giúp xã hội và phát triển nhà ở. Những thành tựu đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, đồng thời tạo nền tảng quan trọng cho ổn định chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều biến động khó lường từ già hóa dân số, biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và áp lực bất bình đẳng xã hội, hệ thống ASXH của Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đổi mới toàn diện.
Từ hỗ trợ sang đảm bảo quyền an sinh
Trong lý luận phát triển hiện đại, ASXH không chỉ là “tấm lưới an toàn” phòng ngừa rủi ro cá nhân, mà còn là “hạ tầng thể chế” để thúc đẩy tăng trưởng bao trùm, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tăng cường kết nối xã hội. Về thực tiễn trong nước, các văn kiện từ Đại hội XI đến XIII đã khẳng định vai trò của ASXH trong chiến lược phát triển. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đưa ra yêu cầu rõ ràng về phát triển hệ thống ASXH đa tầng theo vòng đời, chuyển từ tiếp cận “hỗ trợ” sang “bảo đảm quyền”, gắn với dữ liệu số và đổi mới quản trị an sinh.

TS Phạm Ngọc Toàn, Viện Khoa học Tổ chức nhà nước và Lao động (Ảnh: NVCC).
Sau gần 40 năm Đổi mới, hệ thống ASXH của Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện và mở rộng, từng bước tiệm cận các chuẩn mực quốc tế và khẳng định vai trò trụ cột trong chiến lược phát triển con người bền vững. Nhiều kết quả đáng khích lệ đã đạt được, thể hiện qua mở rộng độ bao phủ, cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường tiếp cận đối với các nhóm yếu thế.
Tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt khoảng 95,2% dân số (tương đương hơn 97,5 triệu người). Bảo hiểm xã hội ngày càng khẳng định vai trò là trụ cột trong đảm bảo ASXH dài hạn, với 18,25 triệu người tham gia (chiếm 39,25% lực lượng lao động trong độ tuổi). Trong đó, nhóm tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng nhanh, đạt gần 1,85 triệu người năm 2024, so với chỉ 190.000 người vào năm 2016. Hệ thống trợ giúp xã hội hiện đang chi trả cho khoảng 3,3 triệu người, trong đó 80% là người cao tuổi và người khuyết tật.

Lãnh đạo tỉnh Lào Cai và Tổng Biên tập báo Dân trí khánh thành đường thôn Làng Nủ kết nối với thôn Trĩ Trong (Ảnh minh họa: Hữu Khoa).
Về giảm nghèo, Việt Nam tiếp tục là điểm sáng khi tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm mạnh, từ 9,2% năm 2016 xuống còn 2,93% năm 2023. Các chính sách nhà ở xã hội, tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, đồng bào miền núi, vùng khó khăn… đã từng bước cải thiện điều kiện sống và nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI).
Những người dễ bị bỏ lại
Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển mới, hệ thống ASXH đang đối mặt với nhiều thách thức lớn:
Thứ nhất, tỷ lệ tham gia BHXH trong khu vực lao động phi chính thức còn thấp, chỉ khoảng 2,1% người lao động phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện. Nhiều lao động tự do, làm việc phi chính thức hoặc di cư chưa được bảo vệ đầy đủ trước các rủi ro về sức khỏe, mất việc hay tuổi già.
Thứ hai, cơ cấu dân số đang chuyển nhanh sang già hóa. Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “dân số già” vào năm 2036, khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên vượt 20% tổng dân số. Điều này tạo áp lực kép lên hệ thống hưu trí, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, và đòi hỏi mở rộng các dịch vụ chăm sóc dài hạn, một lĩnh vực còn đang thiếu hụt trầm trọng về nhân lực, cơ sở hạ tầng và cơ chế tài chính .
Thứ ba, bất bình đẳng xã hội và tính bao trùm của ASXH vẫn là vấn đề đáng quan ngại. Dù đã đạt thành tựu giảm nghèo, nhưng tỷ lệ tái nghèo sau các cú sốc như đại dịch COVID-19, thiên tai, thất nghiệp ở thanh niên… vẫn ở mức cao. Đặc biệt, các nhóm yếu thế như người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người lao động di cư… thường có hạn chế trong tiếp cận dịch vụ công, an sinh, giáo dục và y tế.

Cuối cùng, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu đặt ra những yêu cầu mới. Số hóa mang lại cơ hội mở rộng tiếp cận dịch vụ an sinh, song cũng làm trầm trọng hơn tình trạng “bị bỏ lại phía sau” nếu thiếu kỹ năng số và hạ tầng phù hợp. Biến đổi khí hậu và rủi ro thiên tai ngày càng phức tạp khiến nhu cầu bảo vệ sinh kế và hỗ trợ khẩn cấp gia tăng.
Những thách thức trên đòi hỏi cần có cách tiếp cận mới, chuyển từ an sinh theo cơ chế “từ thiện” sang hệ thống an sinh bao trùm, chủ động và thích ứng. Không chỉ hỗ trợ khi có rủi ro xảy ra, mà còn góp phần đầu tư vào con người, phòng ngừa rủi ro, bảo vệ sinh kế và thúc đẩy công bằng xã hội. Đây sẽ là một trong những yêu cầu chiến lược trung tâm trong giai đoạn phát triển 2026–2035, như được dự thảo trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng.
Chiến lược đầu tư cho con người
Trước hết, cần chuyển mạnh từ tư duy “trợ giúp - hỗ trợ” sang cách tiếp cận phát triển bền vững dựa trên đầu tư vào con người. ASXH không chỉ là công cụ giúp người dân vượt qua khó khăn, mà phải trở thành nền tảng thúc đẩy nâng cao năng lực, khả năng thích ứng và sáng tạo của mỗi cá nhân trong bối cảnh kinh tế tri thức, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu. Mọi người dân đều có quyền được bảo vệ an sinh, không phân biệt nơi cư trú, nghề nghiệp hay tình trạng xã hội.

Hệ thống trợ giúp xã hội hiện đang chi trả cho khoảng 3,3 triệu người, trong đó 80% là người cao tuổi và người khuyết tật (Ảnh minh họa: BHXHVN CC).
Thứ hai, hệ thống ASXH cần được thiết kế theo mô hình đa tầng, tích hợp và hiệu quả, với sự liên kết chặt chẽ giữa các trụ cột: bảo hiểm xã hội và y tế mang tính đóng góp; trợ giúp xã hội không hoàn lại từ ngân sách; bảo hiểm vi mô và các hình thức bảo vệ cộng đồng; chính sách tín dụng, việc làm, nhà ở, giáo dục, đào tạo lại kỹ năng...
Bên cạnh đó, cần phát triển nền tảng dữ liệu số thống nhất về ASXH, kết nối liên thông giữa các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm quản lý theo mã số định danh cá nhân.
Thứ ba, để bảo đảm tính bao trùm thực chất, chính sách ASXH phải đặt người yếu thế vào vị trí trung tâm: người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người dân tộc thiểu số, người di cư, lao động phi chính thức… Việc mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT cho lao động phi chính thức cần gắn với cải cách chính sách đóng - hưởng linh hoạt, phù hợp với thu nhập thấp và không ổn định của nhóm này.
Đối với người cao tuổi cần thúc đẩy chính sách hưu trí xã hội phổ quát, bảo đảm mọi người cao tuổi đều được hỗ trợ một mức sống tối thiểu, đồng thời phát triển mạng lưới chăm sóc dài hạn cộng đồng và tại nhà, dựa vào nguồn lực xã hội hóa.
Thứ tư, phát triển hệ thống ASXH đòi hỏi nguồn lực tài chính bền vững. Cần tiếp tục điều chỉnh tỷ lệ chi ngân sách cho ASXH theo hướng hợp lý hơn giữa hỗ trợ trực tiếp và đầu tư phát triển con người. Đồng thời, phải tính đến cơ cấu dân số già, rủi ro tăng lên do biến đổi khí hậu và dịch bệnh.
Việc mở rộng BHXH, BHYT bắt buộc và tự nguyện phải đi đôi với chính sách hỗ trợ từ Nhà nước cho nhóm yếu thế. Mặt khác, cần huy động sự tham gia của khu vực tư nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng trong cung cấp dịch vụ ASXH như chăm sóc người cao tuổi, bảo hiểm vi mô, đào tạo nghề…

Phó Tổng biên tập báo Dân trí cùng Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang (cũ) trao biển biểu trưng nhà Nhân ái tới người dân ngày 15/1/2025 (Ảnh: Đặng Dũng).
Trong bối cảnh phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội bao trùm, đa tầng, hiện đại, công bằng và hiệu quả là nhiệm vụ cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa là đòi hỏi cấp bách trong thực tiễn phát triển đất nước. Như tinh thần được nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, việc “không để ai bị bỏ lại phía sau” cần được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu, mà bằng hệ thống chính sách đồng bộ, có khả năng triển khai thực chất và gắn chặt với từng người dân.
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa phát triển mới, nơi “thịnh vượng bao trùm” và “phát triển vì con người” không chỉ là mục tiêu kinh tế - xã hội, mà còn là định vị bản sắc của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. ASXH cần được xem như một “nền móng mềm” để kiến tạo quốc gia thịnh vượng, dân chủ, công bằng và hạnh phúc".
TS Phạm Ngọc Toàn
Viện Khoa học Tổ chức nhà nước và Lao động























