Hành trình "đi B", tù đày nơi địa ngục trần gian của thầy giáo qua tư liệu
(Dân trí) - Hàng chục kỷ vật từ thư, bản kiểm điểm, huân chương... đã tái hiện hành trình giữ khí tiết đầy gian nan, cũng vô cùng kiên cường của "người thầy giáo đi B" hơn nửa thế kỷ trước.

Mới đây, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội vụ) tiếp nhận khối kỷ vật lớn của cựu tù chính trị Côn Đảo, nhà giáo Phạm Văn Hứa do gia đình ông trao tặng. Rất nhiều bức thư, bản kiểm điểm và biên bản viết tay, phiếu lý lịch, công văn, quyết định phục hồi Đảng tịch, huân chương, giấy khen, ảnh tư liệu… được tập hợp lại đã tái hiện hành trình cuộc đời của người lính cầm phấn, từ bục giảng ở quê nhà, vào Nam công tác giáo dục, trải qua năm tháng tù đày nơi "địa ngục trần gian" cho tới khi trở về, được phục hồi danh dự và tiếp tục cống hiến.
Ông Phạm Văn Hứa sinh ngày 3/9/1935 tại xã Bản Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Vĩnh Phú. Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới, ông Hứa được tuyển vào học tại Trường Sư phạm sơ cấp, ban Khoa học xã hội. Tốt nghiệp năm 1957, ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò giáo viên cấp I ở quê nhà. Sau đó, ông trải qua nhiều vị trí công tác, từ giáo viên cấp II tới Hiệu trưởng Trường cấp II Bản Nguyên (Lâm Thao).
Ngày 11/2/1960, thầy giáo Phạm Văn Hứa được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), trở thành đảng viên chính thức từ ngày 14/2/1961. Đó là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu con đường phấn đấu trọn đời trong hàng ngũ cách mạng.




Thầy giáo "đi B"
Ngày 5/3/1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt, ông Hứa được điều động vào Nam trong diện "nhà giáo đi B" (thực hiện chủ trương huy động cán bộ, giáo viên miền Bắc xung phong chi viện cho miền Nam).
Tại chiến trường Nam Bộ (Khu 8 - Trung Nam Bộ), ông được phân công về Ban Giáo dục, tham gia tổ chức các lớp bình dân học vụ, đào tạo cán bộ giáo dục cho vùng giải phóng.
Giai đoạn 1969-1970, ông từng công tác tại trường Nguyễn Văn Bé - ngôi trường nổi tiếng đào tạo giáo viên và cán bộ cơ sở ở chiến khu. Đến giữa năm 1970, ông được điều về phụ trách công tác giáo dục tại khu vực Hồng Ngự (tỉnh Kiến Phong, nay là Đồng Tháp).
Nơi quê nhà, nhớ lại thời kỳ đó, ông Phạm Văn Ba, con trai thứ tư của ông Phạm Hứa cho biết, khi cha lên đường vào Nam ông mới hai tuổi. Suốt thời gian ấy gia đình hoàn toàn bặt tin.
"Không một tấm ảnh, không một lá thư, không một lời nhắn. Mẹ tôi một mình gánh vác, nuôi con, mong ngóng chồng. Khi cha trở về sau ngày giải phóng, cả nhà vỡ òa hạnh phúc", ông Ba bùi ngùi kể.
Người cựu tù chính trị Côn Đảo
Ngày 3/2/1971, khi đang trên đường đi công tác tại xã Phú Thuận (Hồng Ngự, Kiến Phong), ông Hứa rơi vào ổ phục kích của địch và bị bắt. Lúc bị địch đưa đi, trên người ông chỉ có một chiếc quần cộc.
Theo "Phiếu tự báo" và "Bản kiểm điểm" viết năm 1975, ông bị giải về giam tại nhà lao Kiến Phong. Sau một thời gian giam cầm, ông bị địch kết án 12 năm tù, trong đó nặng nhất là 7 năm tù khổ sai vì đánh giá ông là "tù chính trị đặc biệt nguy hiểm". Sau khi bị kết án, ông bị đày ra Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian".
Sau hòa bình, ông kể lại cuộc sống vô cùng khắc nghiệt trong các "chuồng cọp" tại nhà tù Côn Đảo: thiếu ăn, bệnh tật, lao dịch nặng, thường xuyên bị tra khảo, dụ dỗ khai báo. Trong bản kiểm điểm dài viết tay ký ngày 18/6/1975, ông thuật lại, suốt những tháng bị giam, ông "giữ vững khí tiết, không khai báo bất cứ điều gì về tổ chức và cơ sở", dù phải chịu nhiều đòn tra tấn và dụ dỗ.
"Tôi đã thấm nhuần tư tưởng từ những ngày đầu ở trên đảo, đó là bài học kinh nghiệm, là ý chí và nguyện vọng của tôi. Những gian khổ, thử thách đã rèn luyện tinh thần, giúp tôi giữ vững khí tiết của một Đảng viên, không dao động trước kẻ thù. Bài học ấy theo tôi suốt cuộc đời, trở thành động lực để tiếp tục cống hiến trong nghề dạy học và trong sinh hoạt cộng đồng sau khi được giải phóng", ông viết.






Trong tù, ông vẫn bí mật giúp các đồng đội duy trì tinh thần đấu tranh, dạy chữ cho anh em tù chính trị, và luôn giữ vững niềm tin rằng ngày độc lập, thống nhất sẽ tới.
Ông Phạm Văn Thanh, con trai thứ 5 của ông Hứa chia sẻ, sinh thời, cha ông đã kể lại đêm 30/4/1975, một số tù nhân biết tiếng Anh nghe lính canh bàn nhau, sáng hôm sau sẽ đưa toàn bộ tù chính trị lên máy bay quân sự rồi thả xuống biển để thủ tiêu. Cha ông và đồng đội đã chuẩn bị sẵn tinh thần cho cái chết.
May mắn đến ngày 1/5, bộ đội giải phóng kịp thời có mặt, mở bung cánh cửa nhà ngục, cứu sống tất cả tù binh.
Ngày 17/5/1975, ông được đưa về đất liền và đúng ngày 21/5/1975 chính thức có mặt tại cơ quan cũ.

Một người đồng đội của ông Hứa đã gửi tấm ảnh này cho các con ông với chú thích: Chiều 16/5/1975, Hải quân Việt Nam được đoàn tù Côn Đảo, lúc đó gọi là Đoàn Chiến Thắng - với ngôi sao đỏ trên ngực về đến bến tàu Bạch Đằng, Sài Gòn. Trong ảnh có Phạm Hứa đi đầu, người đi sau là Nguyễn Bình đang cười chiến thắng (Ảnh: NVCC)
Được minh oan, phục hồi danh dự Đảng viên
Do từng bị địch bắt, sau khi trở về, ông Hứa phải trải qua quá trình thẩm tra rất nghiêm ngặt của tổ chức. Các tư liệu được gia đình giữ lại đến nay đã cho thấy từng bước xác minh rất khắt khe.
Ngày 18/6/1975, ông Phạm Văn Hứa tự viết một bản kiểm điểm dài 5 trang, tường trình chi tiết từ lúc bị bắt (ngày 3/2/1971), quá trình bị giam, trải nghiệm khi bị thẩm vấn và khẳng định rằng trong suốt thời gian bị giam ông không khai báo, giữ vững khí tiết của người đảng viên.
Trên cơ sở bản tự kiểm này, Sở Giáo dục Khu Trung Nam Bộ tổ chức họp kiểm điểm về trường hợp ông vào ngày 5/7/1975. Biên bản cuộc họp ghi nhận thái độ, hoạt động của ông sau khi giải phóng và kết luận sơ bộ: "giữ vững khí tiết, không khai báo", đồng thời đề xuất các bước xử lý tiếp theo.








Ngày 9/7/1975, Sở có Công văn số 25/TC gửi Ban Tổ chức Khu ủy báo cáo kết quả kiểm điểm, nêu rõ hoàn cảnh bị bắt và kiến nghị phục hồi Đảng tịch, đồng thời đề xuất bố trí công tác với ông Hứa, trong đó có dòng đề xuất để ông làm Trưởng phòng Bình dân học vụ.
Sau quá trình thẩm tra, Ban Tổ chức Khu ủy lập Công văn/Phúc trình số 1036/TC1 ngày 24/10/1975, khẳng định kết quả xác minh lý lịch và nhân chứng: đồng chí Phạm Văn Hứa không khai báo, không có hành vi phản bội và đề nghị phục hồi Đảng tịch... Đảng ủy Liên cơ/ Khu ủy ban hành Quyết định số 65/DU ngày 4/11/1975, chính thức phục hồi Đảng tịch và tính liên tục tuổi Đảng cho ông. Đây là văn bản chấm dứt quá trình thẩm tra và khôi phục danh dự chính thức...
Việc phục hồi Đảng tịch không chỉ trả lại quyền lợi pháp lý cho cá nhân ông mà còn là khẳng định chính thức của tổ chức: ông là một đảng viên kiên trung, không dao động trước đòn roi kẻ thù.







Những cống hiến sau ngày thống nhất
Sau khi được phục hồi danh dự, ông Hứa tiếp tục công tác trong ngành giáo dục, góp phần khôi phục hệ thống trường lớp tại miền Nam sau chiến tranh.
Ông liên tục đón nhận huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Ba do Ủy ban Nhân dân cách mạng Khu Trung Nam Bộ trao tặng (năm 1975), bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục vì thành tích xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1979). Đặc biệt, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất (năm 1986 và 1987).

Giấy chứng nhận 2 Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất của ông Phạm Văn Hứa (Ảnh: NVCC).
Ngoài công tác chuyên môn, ông còn tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trẻ, tiếp tục đồng hành cùng sự nghiệp giáo dục của quê hương cho đến khi nghỉ hưu.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông Hứa được phân công công tác trong ngành giáo dục. Dù được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, sau này ông vẫn một mực xin trở về quê hương để dạy học.
Tuy nhiên, hậu quả của những đòn tra tấn tàn khốc năm xưa khiến sức khỏe ông giảm sút nghiêm trọng. Ông xin nghỉ hưu sớm và qua đời vào tháng 4/1993, khi mới 58 tuổi.
Hành trình của ông Phạm Văn Hứa là bức tranh tiêu biểu về lớp trí thức miền Bắc "đi B" thời chiến. Người thầy rời bục giảng, vào chiến trường, bền bỉ gieo chữ giữa bom đạn, giữ khí tiết trong tù ngục, trở về tiếp tục phụng sự và âm thầm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Những tập hồ sơ dày, những dòng kiểm điểm viết năm 1975, những giấy khen đã ố vàng… ngày nay không chỉ là chứng tích cá nhân, mà còn là một phần ký ức lịch sử.
Nhớ lại ngày được mời lên Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III để trao tặng những kỷ vật của cha, ông Phạm Văn Ba không khỏi xúc động. "Những tư liệu của cha tôi không còn ngủ yên trong nhà nữa mà đã trở thành chứng tích lịch sử. Tôi bật khóc khi cầm trên tay những giấy tờ, bức ảnh, cảm giác như được gặp lại cha sau 33 năm xa cách, tự hào, xúc động và biết ơn vô cùng", ông Ba rưng rưng nước mắt.