"Điểm mù" đưa 1,6 triệu thanh niên Việt vào cảnh không đi học, không đi làm
(Dân trí) - Tâm lý sợ thất bại, ngại đối mặt với khó khăn, cộng thêm những lỗ hổng kéo dài trong công tác hướng nghiệp của cơ quan quản lý… đang góp phần khiến hàng triệu thanh niên Việt rơi vào cảnh “ba không”.
Hướng nghiệp vẫn còn kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, trong quý III, Việt Nam có khoảng 1,6 triệu thanh niên (15-24 tuổi) không đi học, không tham gia đào tạo và cũng không có việc làm, tăng hơn 222.000 người so với quý II/2025.
TS Nguyễn Thụy Vũ, Viện trưởng Viện Đào tạo và Nâng cao TPHCM (IFP), đánh giá đây là tín hiệu đáng lo cho chất lượng nguồn nhân lực tương lai.

Độ tuổi 15-24 là giai đoạn quan trọng để xây dựng kỹ năng, học nghề và hình thành thói quen lao động. Nếu bị bỏ trống trong thời điểm này, nhiều bạn trẻ sẽ khó bắt nhịp với thị trường lao động, thiếu kỹ năng mềm, kỹ năng nghề và dễ tự ti hoặc ngại hòa nhập.
Theo chuyên gia, hệ lụy không chỉ dừng lại ở cá nhân. Một bộ phận thanh niên không học, không làm sẽ phụ thuộc vào gia đình hoặc xã hội, làm tăng gánh nặng an sinh và kéo giảm tốc độ tăng năng suất lao động quốc gia.
TS Nguyễn Thụy Vũ cho rằng thực trạng trên chịu tác động từ bối cảnh kinh tế và thị trường việc làm còn nhiều khó khăn.
“Sau đại dịch Covid-19, quá trình tái cơ cấu khiến nhiều doanh nghiệp cắt giảm tuyển mới và ưu tiên nhân sự có kinh nghiệm, dẫn đến bất lợi cho lực lượng thanh niên. Thị trường lao động cạnh tranh hơn, trong khi yêu cầu về kỹ năng số, ngoại ngữ và trải nghiệm thực tiễn ngày càng cao.


Trong khi đó, các công việc phổ thông như phục vụ, bán hàng hay công nhân thời vụ lại kém hấp dẫn do thu nhập thấp, áp lực lớn và ca kíp kéo dài. Không ít bạn trẻ chỉ làm vài tháng rồi nghỉ, dẫn đến những giai đoạn tạm nghỉ dài hạn”, chuyên gia phân tích.
Cùng với thách thức từ thị trường lao động, tình trạng mất định hướng nghề nghiệp sau THPT vẫn diễn ra phổ biến do hệ thống hướng nghiệp còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh chọn sai ngành, học xong không biết làm gì, thậm chí bỏ dở đại học hoặc bỏ học nghề giữa chừng. Việc đào tạo nặng lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành cũng khiến sinh viên dù có bằng cấp vẫn khó đáp ứng nhu cầu tuyển dụng. Chi phí học tập tăng cao tiếp tục tạo rào cản, đặc biệt đối với những gia đình khó khăn.


TS Nguyễn Thụy Vũ nhấn mạnh rằng công tác hướng nghiệp hiện nay còn mang tính “cưỡi ngựa xem hoa”.
“Hướng nghiệp chủ yếu dừng ở việc giúp học sinh nhận diện nghề và đoán xem mình hợp gì, nhưng gần như không tạo cơ hội để các em trải nghiệm thực tế, thử sức và va chạm. Vì vậy, định hướng nghề nghiệp rất mong manh.
Khi bước vào môi trường thật, chỉ cần gặp áp lực hoặc khác biệt kỳ vọng, nhiều bạn trẻ dễ nản, dễ bỏ cuộc rồi quy nguyên nhân về tâm lý. Đây chính là “điểm mù” lớn cần được cải thiện”, TS Vũ nhấn mạnh.
Tâm lý sơ hở là nghỉ việc… chữa lành
TS Nguyễn Thụy Vũ cho hay sự kỳ vọng ngày càng cao của thị trường lao động khiến nhiều thanh niên trở nên lo sợ và chủ động rời bỏ công việc trước khi bị kiệt sức. Để có được một vị trí ổn định, người lao động buộc phải sở hữu kỹ năng thuộc 2–3 nhóm nghề liên quan.
“Một chuyên viên marketing ngày nay không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn phải biết xử lý hồ sơ, thiết kế và thành thạo công nghệ”, TS Nguyễn Thụy Vũ nêu ví dụ.
Theo chuyên gia, ngày càng nhiều người trẻ đối mặt với lo âu, áp lực, trầm cảm, sợ thất bại, cảm giác thua kém hoặc tự ti nghề nghiệp. Một bộ phận người trẻ chọn “ở yên trong phòng”, không học, không làm như một cách né tránh. Sự kỳ vọng quá lớn của thị trường cũng khiến họ dễ nản lòng, ngừng lại giữa chừng để tránh kiệt sức.


“Giới trẻ ngày nay chỉ cần sơ hở là nghỉ việc để “chữa lành”. Với nhiều bạn trẻ, đó đã trở thành phản ứng quen thuộc mỗi khi gặp áp lực. Thay vì đối diện vấn đề, tìm cách đàm phán hay chủ động trau dồi kỹ năng, một bộ phận Gen Z (những người sinh ra trong khoảng từ năm 1997 đến 2012) lại quy mọi khó khăn về yếu tố tâm lý, tự nhận mình kiệt sức rồi chọn rút lui khỏi học tập và công việc. Tâm lý này dần trở thành vòng trì hoãn kéo dài, khiến họ rơi vào trạng thái không học, không làm lúc nào không hay”, TS Nguyễn Thụy Vũ nhận định.
Chuyên gia lý giải rằng Gen Z lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được đầu tư giáo dục nhiều hơn và thường là con trong gia đình ít người, nên nhận được sự chăm sóc, hỗ trợ tương đối trọn vẹn. Điều này vô tình làm giảm áp lực tài chính, yếu tố từng thúc đẩy các thế hệ trước sớm lập nghiệp.

Nhiều bạn trẻ đặt kỳ vọng rất cao, mong muốn công việc phải có ý nghĩa, thu nhập tốt, môi trường phù hợp, thời gian linh hoạt. Nhưng thị trường lao động Việt Nam chưa thể đáp ứng đồng thời tất cả các tiêu chí này, khiến họ cảm thấy không phù hợp và không muốn làm những công việc bị cho là không xứng với kỳ vọng.
Việc trưởng thành trong điều kiện đầy đủ cũng khiến nhiều bạn kỳ vọng mức thu nhập cao nhưng lại không hình dung được quá trình dài và sự tích lũy kỹ năng cần thiết để đạt được mức thu nhập ấy.
Một bộ phận thanh niên mong làm giàu sớm, nhưng khi đối mặt thực tế khắc nghiệt thì dễ nản, dễ từ bỏ và rơi vào khoảng trống nghề nghiệp. Một số khác khó tiếp nhận góp ý, tin rằng mình có lợi thế hơn nhờ được học tập trong thời đại giàu cơ hội, dẫn đến thiếu cầu thị và chậm cải thiện năng lực.
“Gen Z tiếp cận lượng thông tin khổng lồ và dễ bị tác động bởi xu hướng toàn cầu hóa. Họ biết nhiều nghề “hot”, nhiều cơ hội mới nhưng không hiểu rõ bản thân có phù hợp hay không, nghề đó có bền vững không và mình cần chuẩn bị những gì để theo đuổi. Việc bị ngợp thông tin còn khiến họ chọn nghề theo phong trào hoặc cảm tính, rồi nhanh chóng thất vọng và từ bỏ”, TS Nguyễn Thụy Vũ nhấn mạnh.
Ngoài ra, nguyên nhân cũng đến từ những yếu tố khác như sự gián đoạn trong học tập, thay đổi thói quen lao động sau Covid-19, hay điều kiện kinh tế – xã hội giữa các vùng miền cũng góp phần tạo ra bất bình đẳng cơ hội và khiến nhiều thanh niên dễ rơi vào trạng thái không học, không làm.
Cần gấp rút giải quyết triệt để các vấn đề
Chuyên gia khẳng định đối với hiện tượng thanh niên không đi học, không tham gia đào tạo và không đi làm, bản thân người trẻ chỉ là hệ quả của nhiều yếu tố. Gốc rễ vấn đề nằm ở doanh nghiệp, xã hội và cơ quan quản lý, khi các chính sách, điều kiện thị trường và môi trường học tập chưa thực sự tạo điều kiện để thanh niên phát triển đúng hướng.
Để giải quyết tình trạng hàng triệu thanh niên rơi vào cảnh “3 không”, TS Nguyễn Thụy Vũ cho rằng công tác hướng nghiệp từ bậc THCS đến THPT cần được đổi mới mạnh mẽ theo hướng khoa học và gắn với thực tiễn.
Theo TS Nguyễn Thụy Vũ, các cơ sở giáo dục có thể áp dụng những công cụ quốc tế nhằm đánh giá năng lực nghề nghiệp như “Mật mã Holland” (RIASEC); xây dựng chương trình hướng nghiệp phù hợp với xu hướng nhân lực trong nước và toàn cầu.


Ở bậc THCS và THPT, các đơn vị có thể thiết kế riêng môn “hiểu về nghề nghiệp và năng lực bản thân” trong hoạt động trải nghiệm – hướng nghiệp, đồng thời bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phụ trách hướng nghiệp một cách bài bản. Việc kết nối học sinh với doanh nghiệp từ lớp 10–12 cũng giúp các em có cơ hội tham quan, thực hành và quan sát môi trường làm việc thực tế.
Bên cạnh đó, các đơn vị cần xây dựng khung đánh giá năng lực dựa trên chuẩn đầu ra thay vì cảm tính. Hơn hết, những kỹ năng về giao tiếp, sử dụng công nghệ, đạo đức, văn hóa – chuẩn mực lao động… cũng cần được đào tạo và trở thành tiêu chí đánh giá trước khi các em tốt nghiệp.
Ngoài cải thiện hướng nghiệp, các đơn vị giáo dục và đào tạo có thể mở rộng chương trình đào tạo nghề ngắn hạn 3–12 tháng, tập trung vào kỹ năng thực hành sát với nhu cầu thị trường; kết hợp tăng cường dịch vụ hỗ trợ tâm lý, sức khỏe tinh thần cho thanh niên.


“Một điều quan trọng nữa là cần nâng cao chất lượng việc làm cho người trẻ thông qua việc cải thiện lương, phúc lợi và môi trường làm việc. Song song với điều đó là xây dựng chính sách hỗ trợ tài chính cho người trẻ muốn học lại hoặc chuyển sang học nghề”, TS Nguyễn Thụy Vũ cho hay.
Theo chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng cơ sở dữ liệu thanh niên Việt Nam nhằm hình thành hệ thống thông tin tập trung, theo dõi tình trạng thanh niên “không học, không làm” ở từng địa phương.
Dữ liệu này sẽ giúp nhận diện chính xác kỹ năng, việc làm và nhu cầu của thanh niên; phát hiện sớm nhóm có nguy cơ rơi vào tình trạng “3 không”, từ đó kết nối học nghề, việc làm kịp thời và thiết kế chính sách phù hợp, bền vững hơn.
Cùng với đó, các sở, ngành có thể liên kết với tổ chức bảo trợ xã hội, tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp để triển khai mô hình đào tạo kỹ năng nghề “thực chiến”, gắn đào tạo với tuyển dụng. Cách làm này giúp thanh niên không học, không làm sớm thích nghi, hòa nhập và có lộ trình nghề nghiệp lâu dài, ổn định.
Ảnh: Nguyễn Vy, Trịnh Nguyễn, Huyên Nguyễn, Freepik























