Tác động của đạo luật gốc với việc quản trị, điều chỉnh thị trường lao động
(Dân trí) - Thứ trưởng Bộ Nội vụ Cao Huy nhận định, Bộ luật Lao động 2019 là đạo luật “gốc”, tạo nền tảng quản trị nhân sự và bảo vệ an sinh của hàng chục triệu lao động sau 5 năm triển khai.
Sáng 4/12 tại Hải Phòng, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Bộ luật Lao động 2019. Tham dự có Thứ trưởng Bộ Nội vụ Cao Huy, lãnh đạo UBND TP Hải Phòng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng đại diện các sở, ban, ngành và địa phương trực thuộc Trung ương.

Quang cảnh Hội nghị (Ảnh: Nguyễn Dương).
Nhu cầu sửa đổi Bộ luật Lao động 2019
Khái quát vấn đề đặt ra, Thứ trưởng Cao Huy nhấn định, Bộ luật Lao động là đạo luật gốc, điều chỉnh toàn diện các vấn đề về lao động, tác động sâu rộng đến hệ thống doanh nghiệp và đời sống hàng chục triệu người lao động. Theo ông, Bộ luật tạo nền tảng quan trọng cho thể chế thị trường lao động hiện đại.
Có hiệu lực từ 1/1/2021, Bộ luật được đánh giá đã tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ và phù hợp bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi nhanh. Lãnh đạo Bộ Nội vụ nêu bốn nhóm kết quả nổi bật sau 5 năm triển khai.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật được hoàn thiện khi nhiều nghị định, thông tư được ban hành, làm rõ quy định về hợp đồng lao động, thời giờ làm việc - nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động và tiền lương tối thiểu, giúp cơ quan và doanh nghiệp dễ áp dụng hơn.
Thứ hai, Bộ luật nâng cao tính minh bạch, hiện đại và mức độ tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế. Các nội dung về phòng chống cưỡng bức lao động, chống phân biệt đối xử, xác định độ tuổi tối thiểu làm việc và thúc đẩy thương lượng tập thể được quy định đầy đủ, góp phần cải thiện điều kiện làm việc và năng suất lao động.
Thứ ba, Bộ luật tác động tích cực đến việc làm và hoạt động doanh nghiệp. “Người lao động được bảo vệ tốt hơn, có thêm cơ hội đối thoại, thương lượng để cải thiện phúc lợi”, ông nói. Doanh nghiệp được tạo điều kiện linh hoạt hơn trong tổ chức sản xuất, cơ cấu nhân sự.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Cao Huy phát biểu tại hội nghị (Ảnh: Nguyễn Dương).
Thứ tư, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường với hệ thống thông tin thị trường lao động cải thiện, vi phạm hành chính được xử lý kịp thời, doanh nghiệp chủ động rà soát nội quy, hợp đồng để giảm tranh chấp.
Thứ trưởng Cao Huy đồng thời nêu rõ các thách thức mới do chuyển đổi số, kinh tế xanh và sự xuất hiện của các hình thức việc làm từ xa, lao động nền tảng hay việc làm xuyên biên giới. Tự động hóa và AI tạo ra nhu cầu chuyển đổi kỹ năng, đặc biệt với lao động phổ thông.
Ông cho biết năm 2025 là giai đoạn quan trọng khi Nhà nước sắp xếp đơn vị hành chính và đổi mới tổ chức bộ máy, kéo theo yêu cầu mới trong quản lý lao động. Thứ trưởng yêu cầu phân tích vướng mắc, đề xuất giải pháp bảo đảm hài hòa giữa linh hoạt của thị trường và quyền lợi của người lao động, để có thể hoàn thiện chính sách lao động giai đoạn tới.
Nêu báo cáo tổng quan về việc triển khai Bộ luật, bà Phạm Thị Thanh Việt, chuyên viên chính Vụ Pháp chế (Bộ Nội vụ) nêu mốc ban hành Nghị định 128/2025 và 129/2025 của Chính phủ để phân cấp, phân quyền và phân định thẩm quyền giữa chính quyền địa phương hai cấp. Tuy nhiên, hai nghị định này chỉ có hiệu lực đến năm 2027, nên cần sửa đổi Bộ luật để bảo đảm tính ổn định lâu dài.
Ngoài ra, theo nữ chuyên viên, nên nghiên cứu sửa đổi các quy định liên quan đến nghiệp đoàn cơ sở, tranh chấp lao động và đình công, nhằm tăng tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tiệm cận tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đây là các vấn đề phức tạp, đòi hỏi thời gian nghiên cứu, tham vấn nhiều bên để đảm bảo đồng thuận và phù hợp thực tiễn.

Bà Phạm Thị Thanh Việt, chuyên viên chính Vụ Pháp chế (Bộ Nội vụ) nêu các vấn đề về vận hành bộ máy chính quyền địa phương mới (Ảnh: Nguyễn Dương).
Bà Việt đề xuất trước mắt cần tập trung sửa Bộ luật Lao động 2019 để phục vụ việc sắp xếp tổ chức bộ máy, triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp và tăng cường phân cấp, phân quyền. Đồng thời, cần xem xét sửa đổi các luật liên quan để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định.
Kết quả triển khai và các vướng mắc từ thực tiễn
Ông Đỗ Minh Hoài - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nội vụ) - cho biết Việt Nam đang tích cực thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKVFTA. Các hiệp định FTA này bao gồm nhiều cam kết về lao động, yêu cầu các quốc gia tuân thủ 10 công ước cơ bản của ILO. Việt Nam đã phê chuẩn 9/10 công ước và đang xem xét Công ước 87 về Tự do hiệp hội.
Việc thực thi các cam kết trong FTA góp phần cải thiện môi trường làm việc, tăng cường bảo vệ quyền lợi người lao động và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Ở lĩnh vực việc làm, ông Bùi Đức Nhưỡng - Phó Cục trưởng Cục Việc làm - cho biết 5 năm qua, cơ quan này đã chủ trì xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn đồng bộ về tuyển dụng, quản lý lao động và thời giờ làm việc - nghỉ ngơi. Nghị định 219/2025 theo tư duy “biên giới phẳng” đã đơn giản hóa mạnh thủ tục hành chính, rút thời gian cấp giấy phép lao động từ 36 xuống 10 ngày, giảm biểu mẫu từ 17 xuống còn 4.
Việc triển khai Bộ luật đã góp phần thu hút hơn 170.000 lao động nước ngoài, tăng cường minh bạch trong quản lý giờ làm thêm và bảo vệ sức khỏe người lao động. Tuy vậy, theo ông Nhưỡng, vẫn còn một số bất cập cần tiếp tục hoàn thiện.

Ông Bùi Quốc Trình - Phó Giám đốc Sở Nội vụ Hải Phòng phát biểu tại Hội nghị (Ảnh: Nguyễn Dương).
Ở góc độ địa phương, ông Bùi Quốc Trình - Phó Giám đốc Sở Nội vụ Hải Phòng - cho biết, thành phố có hơn 53.500 doanh nghiệp, gần 2 triệu lao động. Cơ cấu lao động đa dạng và biến động nhanh, phản ánh đặc trưng của đô thị công nghiệp - cảng biển. Hải Phòng đã triển khai đầy đủ quy định Bộ luật, bao quát hầu hết nhóm lao động trên địa bàn.
Tuy nhiên, ông Trình nêu một số khó khăn: người lao động tại một số doanh nghiệp chưa hiểu rõ điều khoản hợp đồng; doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực hiện đối thoại định kỳ theo quy định; việc đăng ký làm thêm 200-300 giờ/năm ở một số đơn vị chưa đúng quy trình thông báo.
Ông cũng kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chính sách về kỷ luật lao động, an toàn vệ sinh lao động, bình đẳng giới, lao động chưa thành niên và các chính sách bảo hiểm để phù hợp thực tiễn địa phương.











