DNews

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc?

Phương Liên

(Dân trí) - Suốt 40 năm qua, Trung Quốc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc đẩy mạnh đầu tư vào các nhà máy, đường sá và những tòa nhà chọc trời. Nhưng giờ đây mô hình này không còn hiệu quả nữa.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc?

Mô hình được Trung Quốc sử dụng trước đây đã mở ra một giai đoạn tăng trưởng phi thường, biến quốc gia này thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và là công xưởng sản xuất của toàn cầu.

Những gì từng hiệu quả với Trung Quốc giờ đây đã không còn nhiều ý nghĩa khi đất nước này đang chìm trong nợ nần. Trên khắp Trung Quốc, nhiều cây cầu và sân bay không được sử dụng. Hàng triệu căn hộ không có người ở. Lợi tức đầu tư giảm mạnh.

Tương lai Trung Quốc sẽ ra sao?

Các nhà kinh tế giờ đây tin rằng, Trung Quốc đang bước vào một kỷ nguyên tăng trưởng chậm hơn, dân số già hóa, lực lượng lao động suy giảm. Bên cạnh đó mối quan hệ ngày càng căng thẳng với Mỹ và phương Tây cũng gây rủi ro cho đầu tư và thương mại nước ngoài.

"Chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi quỹ đạo đáng chú ý nhất trong lịch sử kinh tế". Adam Tooze, giáo sư lịch sử của Đại học Columbia chuyên nghiên cứu về các cuộc khủng hoảng kinh tế, bình luận trên Wall Street Journal.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc ở mức dưới 4% trong những năm tới, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng trong hơn 40 năm qua.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc? - 1

Trung Quốc đang bước vào một kỷ nguyên tăng trưởng chậm, dân số già hóa, lực lượng lao động suy giảm (Ảnh: SCMP).

Capital Economics dự báo tăng trưởng của Trung Quốc sẽ giảm xuống khoảng 2% vào năm 2030. Nhiều ngân hàng nước ngoài như JPMorgan Chase, Barclays và Morgan Stanley hạ dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm nay, xuống dưới mục tiêu 5% của chính phủ.

Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng đang rút tiền ra, khiến Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) phải tìm cách chặn lại đà giảm của nhân dân tệ. Điều này có thể khiến Trung Quốc khó có thể vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Nhưng hiện tại, họ đang đối mặt với những rào cản chưa từng có. Nền kinh tế quy mô 18.000 tỷ USD đang giảm tốc. Người tiêu dùng ngại chi tiêu. Xuất khẩu giảm. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên đã đạt mức cao kỷ lục.

Country Garden Holdings, một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất nước còn trụ được cho đến nay, đang có nguy cơ vỡ nợ khi toàn bộ nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát.

Liệu Trung Quốc có trì trệ như Nhật Bản?

Thực ra, một số điểm yếu của Trung Quốc đã bộc lộ rõ từ trước đại dịch. Nền kinh tế vẫn có thể tiếp tục tăng trưởng là nhờ đi vay nhiều hơn và dựa vào thị trường bất động sản bùng nổ, lĩnh vực trong nhiều năm liên tiếp đóng góp hơn 25% GDP.

Những thành công ban đầu trong kiểm soát Covid-19 và nhu cầu về hàng tiêu dùng tại các thị trường phương Tây tăng vọt trong đại dịch đã làm mờ đi những điểm yếu này. Sau khi thế giới trở lại trạng thái bình thường, Trung Quốc phải đối mặt với nhu cầu của phương Tây sụt giảm, thị trường nhà đất khủng hoảng cùng với những khối nợ khổng lồ.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc? - 2

Những điểm yếu của Trung Quốc đã bộc lộ rõ từ trước đại dịch (Ảnh: AFR).

Nếu không có gói kích thích lớn từ Bắc Kinh hay những nỗ lực hồi phục niềm tin của các doanh nghiệp tư nhân, nhiều chuyên gia tin rằng Trung Quốc có thể rơi vào tình trạng trì trệ giống như Nhật Bản từng trải qua khi bong bóng bất động sản vỡ kéo theo nhiều năm giảm phát và tăng trưởng gần như đứng im.

Năm ngoái, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ đạt 12.850 USD, thấp hơn ngưỡng tối thiểu 13.845 USD mà World Bank đưa ra để phân loại một nước vào nhóm thu nhập cao. Con số này của Nhật Bản và Mỹ trong năm ngoái lần lượt là 42.440 USD và 76.400 USD.

"Thế kỷ Trung Quốc"

Quá trình trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc đánh dấu một sự thay đổi đáng kinh ngạc. Trung Quốc liên tục thách thức các chu kỳ kinh tế trong bốn thập niên kể từ khi bắt đầu kỷ nguyên cải cách và mở cửa vào năm 1978.

Trong thời kỳ đó, Trung Quốc đã tăng thu nhập bình quân đầu người lên gấp 25 lần và giúp hơn 800 triệu người dân thoát nghèo, theo World Bank. Điều này khiến Trung Quốc tiến bộ vượt bậc, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Mỹ.

Giới nghiên cứu ấn tượng mạnh với sự trỗi dậy của Trung Quốc và gọi thế kỷ 21 là "thế kỷ của Trung Quốc" khi nước này thống trị nền kinh tế và chính trị thế giới.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc? - 3

Quá trình trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc đánh dấu một sự thay đổi đáng kinh ngạc (Ảnh: Unsplash).

Cơn bùng nổ kinh tế của Trung Quốc được thúc đẩy bởi dòng vốn đầu tư "khủng" vào cơ sở hạ tầng và các tài sản cố định khác. Trong giai đoạn 2008-2021, trung bình dòng vốn đầu tư này chiếm khoảng 44% GDP. Con số này cao hơn hẳn mức trung bình toàn cầu là 25% và khoảng 20% ở Mỹ.

Trung Quốc đã xây dựng thêm hàng chục nghìn km đường cao tốc, hàng trăm sân bay và mạng lưới tàu cao tốc lớn nhất thế giới.

Trung Quốc có thể chi lớn đến vậy một phần là nhờ hệ thống các ngân hàng nhà nước cùng lãi suất tiền gửi ở mức thấp. Nhờ vậy, quốc gia này có thể huy động được lượng vốn lớn có chi phí thấp để xây dựng các dự án.

Xây dựng quá mức

Tuy nhiên, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy hoạt động xây dựng này đã quá "thừa mứa". Năm 2018, khoảng 20% số căn hộ ở đô thị Trung Quốc, tương đương khoảng 130 triệu căn hộ, không có người ở, theo số liệu thống kê của Đại học Tài chính và Kinh tế Tây Nam (Trung Quốc).

Guizhou, một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Quốc, có GDP bình quân đầu người năm 2022 chưa tới 7.200 USD nhưng đã xây hơn 1.700 cây cầu và 11 sân bay. Tính đến cuối năm ngoái, ước tính tỉnh này có nợ xấu 388 tỷ USD.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc? - 4

Ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy hoạt động xây dựng này đã quá "thừa mứa" (Ảnh: Bloomberg).

Kenneth Rogoff, giáo sư Đại học Harvard, cho rằng sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc cũng giống như nhiều nền kinh tế châu Á trong thời kỳ đô thị hóa và giống như những gì các nước châu Âu đã trải qua sau Thế chiến thứ hai. Nhiều thập niên xây dựng quá mức ở Trung Quốc cũng giống cơn bùng nổ xây dựng hạ tầng của Nhật Bản.

Các chuyên gia kinh tế ước tính hiện tại Trung Quốc phải đầu tư khoảng 9 USD để tạo ra mỗi USD tăng trưởng GDP. Cách đây 1 thập kỷ, con số chưa đến 5 USD và trong những năm 1990 Trung Quốc chỉ cần đầu tư hơn 3 USD.

Trong khi đó, lực lượng lao động của Trung Quốc đang thu hẹp và năng suất tăng chậm lại. Từ những năm 1980 đến đầu những năm 2000, tăng trưởng năng suất đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP Trung Quốc, nhưng trong thập kỷ vừa qua tỷ trọng đã giảm xuống còn chưa đến 1/6.

Giải pháp nào cho Trung Quốc?

Rất nhiều địa phương của Trung Quốc giải quyết bài toán tăng trưởng chậm bằng cách tiếp tục vay mượn và xây dựng. Tổng nợ, bao gồm cả nợ của các cấp chính quyền địa phương và công ty nhà nước, đã tăng từ mức chưa đến 200% GDP trong năm 2012 lên gần 300% GDP năm 2022, theo dữ liệu của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế.

Theo các chuyên gia kinh tế, Trung Quốc có thể thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng và các ngành dịch vụ để tạo ra một nền kinh tế cân bằng hơn. Mô hình này cũng tương tự với Mỹ và Tây Âu. Hiện tiêu dùng hộ gia đình chỉ đóng góp khoảng 38% GDP ở Trung Quốc, trong khi con số này ở Mỹ lên tới 68%.

Kịch bản nào cho Trung Quốc khi cơn bùng nổ kinh tế 40 năm kết thúc? - 5

Trung Quốc có thể thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng và các ngành dịch vụ để tạo ra một nền kinh tế cân bằng hơn (Ảnh: SCMP).

Để làm được điều đó, Trung Quốc sẽ phải triển khai những biện pháp nhằm khuyến khích người dân tăng chi và giảm tiết kiệm.

Tuy nhiên, có vẻ như Trung Quốc vẫn đang hoài nghi về nền kinh tế tiêu dùng. Thay vào đó, nước này vẫn muốn tập trung phát triển để trở thành một cường quốc công nghiệp nhằm cạnh tranh với phương Tây. Bắc Kinh đã chi hàng tỷ USD phát triển ngành công nghiệp chip nội địa để giảm phụ thuộc vào phương Tây.

Trung Quốc hoàn toàn có thể biến những tham vọng này hiện thực. Tuy nhiên, những thành tựu đó là không đủ để vực dậy toàn bộ nền kinh tế hay tạo đủ việc làm cho hàng triệu cử nhân vừa tốt nghiệp đại học, sắp gia nhập lực lượng lao động.