DNews

Đề xuất đưa địa phương thành "Hub" công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực

Nam Đoàn

(Dân trí) - Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu bước chuyển tư duy mang tính lịch sử khi lần đầu tiên nâng tầm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thành một trong những "đột phá chiến lược".

Đề xuất đưa địa phương thành "Hub" công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực

Đây được xem là chìa khóa quan trọng để Việt Nam bứt tốc hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Tuy nhiên, giữa khát vọng lớn và thực tế triển khai vẫn còn tồn tại những "điểm nghẽn" nan giải, đặc biệt là "chiếc áo" thể chế tài chính chật hẹp đang kìm hãm đà sáng tạo.

Làm thế nào để "cởi trói" toàn diện cho khoa học công nghệ? Đâu là những không gian kinh tế mới cần khai phá? Phóng viên báo Dân trí đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Hà Huy Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Chiến lược Kinh tế địa phương và Lãnh thổ (Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội) để làm rõ hơn vấn đề này.

Từ động lực quan trọng đến đột phá chiến lược

Thưa ông, ông đánh giá tổng quan như thế nào về các định hướng phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được nêu trong dự thảo văn kiện Đại hội XIV? So với các kỳ Đại hội trước, đâu là những điểm nhấn nổi bật?

Vấn đề khoa học công nghệ đã được quan tâm và đưa vào các tuyến định hướng chiến lược trong các nhiệm kỳ đại hội gần đây. Nếu như tại Đại hội XIII, chúng ta có thêm một cụm từ mới là "đổi mới sáng tạo" bên cạnh khoa học công nghệ, thì đến dự thảo Đại hội XIV, văn kiện nhấn mạnh thêm yếu tố "chuyển đổi số". Cụm từ đầy đủ hiện nay là: Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Đề xuất đưa địa phương thành Hub công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực - 1

Tiến sĩ Hà Huy Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Chiến lược Kinh tế địa phương và Lãnh thổ (Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới) trao đổi với phóng viên báo Dân trí (Ảnh: Trung Nam).

Điểm mới và mang tính đột phá nhất ở đây chính là việc xác định tuyến vấn đề này là "đột phá chiến lược". Trước đây, chúng ta coi khoa học công nghệ là "động lực quan trọng", là quốc sách hàng đầu và chúng ta có 3 đột phá chiến lược gồm: Thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực. Hiện tại, khoa học công nghệ được khẳng định là một tuyến ưu tiên, là một mũi đột phá chiến lược riêng biệt.

Các văn kiện như Nghị quyết 57 về đột phá khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng đã nhấn mạnh: Khoa học công nghệ là động lực quan trọng nhất để Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao vào năm 2045.

Rõ ràng, lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quan tâm, đưa vấn đề này thành đột phá chiến lược để đạt được các mục tiêu tăng trưởng cao (hai con số) trong giai đoạn 2026-2030 và những năm tiếp theo.

Một nội dung quan trọng nữa là vấn đề xác lập mô hình tăng trưởng mới. Trước đây chúng ta thường dùng từ "chuyển đổi mô hình tăng trưởng", "tái cơ cấu" hay "cơ cấu lại nền kinh tế".

Nhưng dự thảo lần này gọi là "xác lập mô hình tăng trưởng mới". Mô hình này dựa trên các trụ cột chính là: KHCN, ĐMST và CĐS, chuyển đổi căn bản nền giáo dục - đào tạo nhân tài và kinh tế tư nhân. Như vậy, trụ cột chính vẫn dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Điểm nghẽn thể chế và câu chuyện tài chính

Dự thảo khẳng định khoa học công nghệ là đột phá chiến lược, là động lực then chốt. Theo ông, sự nhấn mạnh này đã đủ mạnh mẽ và cụ thể để tạo ra sự chuyển biến rõ rệt, giúp khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực chính trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa chưa?

Tôi nghĩ không chỉ dự thảo văn kiện Đại hội XIV đưa vấn đề này ra, mà trước đó Nghị quyết 57 đã nói về các giải pháp đột phá.

Đột phá ở đây nghĩa là những giải pháp mang tính mới, chưa có trong tiền lệ, chưa có trong các quy định của pháp luật, giúp xoay chuyển tình thế và phát triển nhanh.

Hiện nay, Ban chỉ đạo Trung ương thực hiện Nghị quyết 57 rất sốt ruột và họp liên tục, đã họp đến lần thứ 4, thứ 5. Chính phủ, Ban chỉ đạo về khoa học công nghệ cũng như Đề án 06 cũng tiến hành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật. Dù đã có những chuyển động, nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều rào cản, vướng mắc.

Vướng mắc tập trung chủ yếu ở thể chế. Mặc dù chúng ta có Nghị quyết 66 về đột phá và cải cách thể chế, nhưng điều quan trọng là cần làm rõ nội hàm "đột phá chiến lược" trong dự thảo lần này.

Cụ thể, sau khi có Nghị quyết 57, các bộ ngành và các cơ quan nghiên cứu như tại Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội cũng chuyển động. Nhà nước giao ngân sách và các tuyến đề tài liên quan đến Nghị quyết 57 nhiều hơn, cấp kinh phí nhiều hơn. Nhưng cái quan trọng là quy trình thủ tục.

Quy trình xác định nhiệm vụ cũng như thanh quyết toán hiện nay vẫn còn rất nhiều vướng mắc. Vẫn làm như cũ: Lập dự toán, tính ngày công, phương thức khoán chi, hóa đơn, báo giá... Những thủ tục hành chính cơ bản này vẫn chưa thực sự được giải quyết. Điều này liên quan đến rất nhiều luật như Luật Ngân sách Nhà nước, các luật về tài chính.

Đề xuất đưa địa phương thành Hub công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực - 2

Toà nhà Trung tâm Đổi mới Sáng tạo tại Khu Công nghệ cao Hoà Lạc (Ảnh: Mạnh Quân).

Bên cạnh đó, cái vướng cơ bản nhất của khoa học công nghệ hiện nay chính là tài chính. Các quy định về tài chính cho khoa học công nghệ phải thay đổi nhưng thực tế chưa xử lý được nhiều.

Tôi mong rằng Nghị quyết Đại hội lần này sẽ cụ thể hóa các nội hàm đột phá: Đột phá về quy định tài chính, đột phá về phát triển nguồn nhân lực, tuyển dụng tài năng một cách thực chất.

Giải pháp nhân lực và đầu tư

Ông vừa nhắc đến vấn đề nhân lực. Vậy cụ thể những vướng mắc và hướng giải quyết cho vấn đề nhân lực chất lượng cao là gì, thưa ông?

Hiện nay Bộ Nội vụ và Chính phủ cũng đã ban hành nghị định về Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng, chuyên gia khoa học. Chủ trương này rất tốt, có nhiều điểm mới nhưng khi thực hiện ở các bộ ngành và địa phương thì lại bị vướng.

Vướng ở chỗ những các chuyên gia ứng cử vào vị trí tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng vẫn phải làm hồ sơ, vẫn phải chứng minh bằng cấp, chứng minh các công trình nghiên cứu…. Bây giờ bắt các nhà khoa học hàng đầu khu vực và thế giới đi lo hồ sơ mang tính thủ tục hành chính như vậy là rất khó.

Ví dụ, chúng ta đang tập trung làm đường sắt cao tốc. Để làm chủ công nghệ đường sắt cao tốc, Chính phủ có thể giao cho Bộ Xây dựng hoặc cơ quan chuyên môn tìm xem trên thế giới có bao nhiêu nhà khoa học nghiên cứu sâu về lĩnh vực này.

Trong số đó bao nhiêu là người Việt Nam, bao nhiêu là người nước ngoài, Việt kiều, rồi mời, thuyết phục họ về để làm việc và phụng sự tổ quốc đồng thời giao những nhiệm vụ, bài toán xứng tầm cùng với đáp ứng đủ điều kiện thực thi?

Chúng ta hoàn toàn có thể mời họ về làm, giao nhiệm vụ Tổng công trình sư về công nghệ đường sắt cao tốc, cùng với các điều kiện kèm theo để thực hiện nhiệm vụ. Năng lực của họ đã được chứng minh trên thế giới rồi, không cần quá nặng nề về thủ tục giấy tờ, hành chính, hồ sơ nữa.

Vai trò của Tổng công trình sư hay Kiến trúc sư trưởng là người kết nối. Bản thân họ không thể làm hoàn chỉnh quy trình công việc, nhưng khi đưa họ về nước, nếu được giao trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cùng với hệ sinh thái làm việc làm kèm thêm, họ sẽ kết nối được 10 người giỏi khác. 10 người đó lại kết nối tiếp, tạo thành mạng lưới 100 người, thành một Network (mạng lưới) nghiên cứu.

Đây là cách để làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực ưu tiên như đường sắt cao tốc hay điện hạt nhân.

Vậy còn về đầu tư, ông có đề xuất gì để nguồn lực đầu tư mang lại hiệu quả thực tế?

Muốn khoa học công nghệ phát triển, bên cạnh các đề tài, nhiệm vụ, phải có những dự án đầu tư. Dự án đầu tư lớn cho khoa học công nghệ, ví dụ như các trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D Center).

Chúng ta có thể lựa chọn các trường đại học hay viện nghiên cứu hàng đầu để trở thành các "Hub" (trung tâm). Tại đó, các nhà khoa học trên thế giới có thể về sinh hoạt chuyên môn, cống hiến.

Tuy nhiên, vướng mắc lại quay về thể chế tài chính. Ví dụ, lập một dự án đầu tư công về khoa học công nghệ hiện nay mất 1 đến 2 năm mới xong chủ trương.

Trong khi đó, thế giới thay đổi, chuyển động không ngừng, dịch chuyển dòng vốn đầu tư của tập đoàn diễn ra liên tục, cùng với công nghệ thay đổi hàng ngày hàng giờ. Nếu cứ rơi vào vòng luẩn quẩn thủ tục pháp lý như thế, chúng ta sẽ lỡ mất cơ hội đón các nhà đầu tư chiến lược và các nhà khoa học hàng đầu, nhân tài, tinh hoa công nghệ.

Lựa chọn công nghệ chiến lược và không gian kinh tế mới

Việc xác định các lĩnh vực ưu tiên như chip bán dẫn, AI, công nghệ sinh học, năng lượng mới... có phù hợp với bối cảnh nguồn lực Việt Nam hiện tại không, thưa ông?

Những lựa chọn đó hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Với quy mô nền kinh tế của Việt Nam hiện nay (khoảng 500 tỷ USD), tôi nghĩ ngân sách nhà nước đầu tư không phải là vấn đề lớn nhất. Quan trọng là đầu tư như thế nào, đầu tư vào đâu để giải quyết vấn đề của quốc gia.

Thủ tướng đã ban hành danh mục công nghệ chiến lược, gồm 11 loại công nghệ và 35 nhóm công nghệ. Nhưng chúng ta cần lựa chọn: Trong 5-10 năm tới, chúng ta chọn 3 hay 5 công nghệ để đầu tư ra tấm ra món? Phải có chiến lược đầu tư và làm chủ công nghệ.

Ví dụ, chúng ta đã quyết tâm làm hai dự án lớn là điện hạt nhân và đường sắt cao tốc. Đây là những lĩnh vực cần chiến lược đầu tư phù hợp. Giai đoạn đầu để làm chủ công nghệ thường vẫn là ngân sách nhà nước dẫn dắt (đầu tư công), sau đó có thể giao cho doanh nghiệp (nhà nước hoặc tư nhân) thực hiện.

Ngoài ra, tôi muốn nhấn mạnh đến một loại hình kinh tế mới rất tiềm năng: Kinh tế tầm thấp.

Ở thế giới, ví dụ Trung Quốc, đây là nền kinh tế nghìn tỷ USD (doanh thu năm 2024 của họ khoảng 300 tỷ USD). Tại Việt Nam, kinh tế tầm thấp hiện mới sử dụng chủ yếu trong nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long (giám sát dịch bệnh, phun thuốc trừ sâu, gieo hạt...).

Nhưng tiềm năng mở rộng là rất lớn: Giao hàng bằng UAV/Drone (máy bay không người lái) ở các đô thị tắc nghẽn như Hà Nội, TP.HCM; cứu hộ cứu nạn thiên tai (như đợt bão vừa rồi, các vùng lũ cô lập nhưng UAV có thể giao hàng cứu trợ tận ngõ ngách) hay giám sát tàu thuyền trên biển...

Đề xuất đưa địa phương thành Hub công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực - 3

Drone xuyên tâm lũ Bắc Ninh tiếp tế đường không cho thôn cô lập (Ảnh: Mạnh Quân).

Để kích hoạt được nền kinh tế tầm thấp, cần có hành lang thể chế: Mở không gian, không phận, kiểm soát an toàn bay.

Dự thảo văn kiện cũng cần đề cập đến các không gian kinh tế mới để xác lập mô hình tăng trưởng mới. Đó là kinh tế tầm thấp, không gian ngầm (như Metro, công trình ngầm), không gian vũ trụ... Hiện nay Luật Đất đai chưa nói đến không gian ngầm và tầm thấp.

Nếu đưa vào văn kiện thì mới có căn cứ để xây dựng các thể chế pháp luật về nền kinh tế tầm thấp.

Kiến tạo các trung tâm công nghệ tại địa phương

Ông có nhắc đến vai trò của địa phương. Theo ông, nên phân cấp và định hướng thế nào cho các địa phương trong phát triển khoa học công nghệ?

Tôi cho rằng dự thảo văn kiện nên có định hướng cho các địa phương trở thành các Hub (trung tâm) về công nghệ hoặc đổi mới sáng tạo, dựa trên tiềm năng đặc thù.

Ví dụ ở Cà Mau, có thể trở thành một Green Hub (trung tâm Xanh) của vùng đồng bằng sông Cửu Long, của quốc gia và khu vực. Cà Mau rất tiềm năng về kinh tế biển, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, tôm sinh thái, với hệ sinh thái rừng ngập mặn lớn, đa dạng.

Hoàn toàn có thể kiến tạo thể chế để tỉnh vận hành thị trường tín chỉ các bon quốc tế.

Hay như Đặc khu Vân Đồn (Quảng Ninh), có thông tin Tập đoàn Haeco, Sun Group và các đối tác dự kiến đầu tư 360 triệu USD xây dựng tổ hợp bảo dưỡng máy bay tại Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Quảng Ninh.

Vân Đồn có thể trở thành một Hub đổi mới sáng tạo của khu vực với trụ cột: về công nghệ hàng không, công nghệ chiến lược, kinh tế tầm thấp, nuôi biển công nghệ cao, dịch vụ nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế. Quảng Ninh có tiềm năng lớn về không gian biển, du lịch, nuôi biển.

Đi kèm với các trung tâm này phải là cơ chế đặc thù. Đã là Hub thì phải cho phép thử nghiệm (Sandbox), miễn trừ trách nhiệm, áp dụng các cơ chế vượt trội so với quy định pháp luật hiện hành.

Chúng ta có 3 đặc khu (Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc). Tôi nghĩ nên xây dựng đây là 3 đặc khu thế hệ mới, thí điểm thể chế hiện đại và mang tính cạnh tranh quốc tế. Chúng ta cần xác định là không cạnh tranh trong nước mà cạnh tranh với Trung Quốc, Singgapore, Malaysia, Indonesia trong việc thu hút nhà đầu tư chiến lược.

Về phía doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, họ cần chính sách gì để thực sự trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia?

Trong Nghị quyết 57 và dự thảo văn kiện đã nói rất rõ. Quan trọng là kiến tạo, sửa đổi và Nghị định hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Ngân sách Nhà nước, để tháo bung hết những rào cản, cởi trói hết các điểm nghẽn đối với KHCN, ĐMST và CĐS.

Cần có cơ chế giao nhiệm vụ và đặt hàng của Nhà nước đối với doanh nghiệp (kể cả tư nhân). Chúng ta thấy các doanh nghiệp dân tộc như FPT, Viettel, Vingroup, Thaco, Trung Nam... đã làm chủ công nghệ rất tốt. Ví dụ CT Group làm công nghệ về UAV, Vingroup đang làm thí điểm đường sắt đô thị, Tập đoàn CMC làm các trung tâm dữ liệu lớn...

Khi giao nhiệm vụ cho họ, đây là sứ mệnh quốc gia chứ không phải chỉ phục vụ doanh nghiệp. Doanh nghiệp được nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng cùng với nguồn lực để nghiên cứu làm chủ công nghệ và để thực hiện nhiệm vụ quốc gia, phụng sự cho quốc gia.

Nhưng hiện nay chưa cơ quan nào dám giao nhiệm vụ vì vướng Luật Đầu tư, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Kiểm toán, Thanh tra... Cần cụ thể hóa chủ trương bằng quy định pháp luật để bảo vệ cán bộ, những người dám nghĩ, dám làm vì lợi ích quốc gia và địa phương.

Để các mục tiêu trong dự thảo văn kiện trở thành hiện thực, đâu là giải pháp then chốt mang tính đột phá cần ưu tiên thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội XIV?

Giải pháp ưu tiên thực hiện và căn cơ nhất vẫn là: Tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế.

Phải tháo bung hết những vướng mắc đang bó buộc khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nếu khó làm đại trà thì hãy thí điểm ở các đặc khu hoặc một số địa phương.

Chúng ta cần một thể chế vượt trội, hiện đại để cạnh tranh sòng phẳng với quốc tế, giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Xin trân trọng cảm ơn ông!