(Dân trí) - Theo Bộ trưởng Nội vụ, định hướng trong sắp xếp lại các đơn vị hành chính là chuẩn bị cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, với mục tiêu mở rộng không gian, tạo động lực phát triển.
Ngay sau khi cả nước cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, tinh gọn các ban Đảng, bộ máy của Quốc hội, Chính phủ, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, hệ thống chính trị lại gấp rút "vừa chạy vừa xếp hàng" trong công cuộc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các địa phương.

Kết luận số 126 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025, ban hành nửa cuối tháng 2, đã nêu rõ yêu cầu về việc nghiên cứu sắp xếp bỏ cấp hành chính trung gian (cấp huyện); tiếp tục sắp xếp cấp xã phù hợp với mô hình tổ chức mới; sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Ngay sau đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục ban hành Kết luận số 127 về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với chủ trương sáp nhập tỉnh, xã và bỏ cấp huyện.
Đối với cấp tỉnh, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho rằng ngoài căn cứ về quy mô dân số, diện tích, cần nghiên cứu kỹ quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành.
Yếu tố cần tính đến nữa là việc mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới... làm cơ sở, căn cứ khoa học trong sắp xếp.
Bộ Chính trị yêu cầu hoàn thiện đề án này trước ngày 27/3 và tiếp thu ý kiến để tiếp tục trình Trung ương trước 7/4.

Chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính các cấp đã được đặt ra từ năm 2017, tại Nghị quyết 18 của Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Nghị quyết 18 khi đó nêu rõ nhiệm vụ "Từng bước sắp xếp, kiện toàn, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; khuyến khích sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị hành chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tăng cường các nguồn lực của địa phương".
Tiếp đó, Nghị quyết 27 của Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới một lần nữa đề cập việc "tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; nghiên cứu thí điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính của quốc gia và từng địa phương".
Thực hiện chủ trương này, từ năm 2017 đến nay, cả nước đã tiến hành 2 đợt sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã (2019-2021 và 2023-2025). Kết quả sau sắp xếp, số đơn vị hành chính cấp huyện giảm từ 713 xuống còn 696; số đơn vị hành chính cấp xã giảm từ 11.162 xuống 10.035.

Tại cuộc họp giao ban đầu tháng 3, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà quán triệt việc triển khai nội dung về sắp xếp đơn vị hành chính và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương cần bảo đảm thận trọng, kỹ lưỡng, chất lượng.
Bộ trưởng nhấn mạnh định hướng của Bộ Chính trị trong việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị hành chính là để chuẩn bị cho sự phát triển của đất nước trong kỳ nguyên mới, với mục tiêu mở rộng không gian, tạo động lực phát triển, đảm bảo sự ổn định lâu dài của đất nước.
"Sắp xếp đơn vị hành chính không phải là sự thay đổi ngắn hạn để vài chục năm phải điều chỉnh mà mở rộng không gian để phát triển ổn định trăm năm, có tính chất chiến lược dài hạn, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nói.

Chủ trì các cuộc họp của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ về Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp gần đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết đây là chủ trương được nhân dân đồng tình và đánh giá cao.
Chủ trương này, theo ông, phù hợp tình hình mới và khả năng quản lý hiện nay khi điều kiện hạ tầng giao thông, hạ tầng số được cải thiện mạnh mẽ.
Đặc biệt, việc tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp sẽ tạo không gian phát triển mới, phát huy tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương.
Đảng ủy Chính phủ cũng thống nhất dự kiến trình cấp có thẩm quyền phương án sau khi sắp xếp sẽ giảm khoảng 50% số đơn vị hành chính cấp tỉnh và giảm khoảng 60-70% đơn vị hành chính cấp cơ sở so với hiện nay.
Thủ tướng yêu cầu việc sắp xếp đơn vị hành chính ngoài tiêu chí về diện tích tự nhiên, quy mô dân số, cần xem xét các tiêu chí về lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân tộc, điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng...

Đặc biệt, việc đặt tên đơn vị hành chính cấp tỉnh phải có tính kế thừa, và việc chọn trung tâm hành chính - chính trị phải cân nhắc các yếu tố lịch sử, địa lý, kết nối hạ tầng, không gian phát triển, quốc phòng, an ninh và hội nhập.

Phân tích với phóng viên Dân trí về mặt chủ trương, PGS.TS Vũ Văn Phúc (Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản) nhận định sắp xếp đơn vị hành chính các địa phương và tổ chức mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là chủ trương lớn, đúng và trúng.
Sau 40 năm đổi mới, ông cho rằng đất nước ta có thế và lực mới, cao hơn; đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, trưởng thành hơn, đủ phẩm chất, năng lực, trình độ để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý khi sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị cấp xã; thực hiện mô hình địa phương 2 cấp.
"Mô hình này nhằm bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đây là yêu cầu cấp thiết của thời kỳ phát triển mới, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", ông Phúc nói.
Theo ông, việc đẩy mạnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện quyết liệt công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số… là tiền đề quan trọng để việc sáp nhập một số tỉnh, bỏ cấp huyện, sáp nhập một số xã và thực hiện mô hình địa phương 2 cấp.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính các địa phương nhằm mở rộng không gian phát triển mới, phát huy lợi thế của từng địa phương và phù hợp định hướng phát triển giai đoạn mới.
Đặc biệt, ông Phúc cho rằng định hướng này không chỉ giúp bộ máy bớt cồng kềnh, bớt chồng chéo, mà quan trọng hơn, giúp đất nước có các đơn vị hành chính lớn hơn, địa bàn ít bị chia cắt, không gian phát triển được mở rộng, dư địa phát triển lớn hơn.

Phân tích về thuận lợi, PGS.TS Vũ Văn Phúc cho rằng sau khi sáp nhập tỉnh sẽ tạo không gian phát triển như một vùng của đất nước, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính nhiều như hiện nay. Sau khi tiếp thu, triển khai chủ trương, đường lối, chính sách... của Trung ương, tổ chức Đảng cấp tỉnh sẽ triển khai ngay xuống tổ chức Đảng cấp cơ sở, mà không cần phải qua cấp trung gian như hiện nay.
Việc bỏ cấp trung gian, theo ông Phúc, sẽ giúp giảm tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức cấp huyện, nghĩa là giảm được nguồn lực rất lớn đang chi cho cấp huyện cả nước, dành nguồn lực này để tăng cường cho cấp tỉnh và cấp cơ sở, một phần dành cho đầu tư phát triển đất nước, đầu tư cho người dân.
Nhấn mạnh cơ sở là cấp gần dân nhất, ông Phúc cho rằng khi sáp nhập tỉnh và bỏ cấp huyện, cần tăng cường đầu tư về nhân lực, vật lực, tài lực ở cấp cơ sở để phục vụ nhân dân tốt hơn.
Dù vậy, ông Phúc cũng chỉ ra một số thách thức nếu địa bàn cấp tỉnh rộng, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, đi lại phức tạp, khó khăn..., sẽ ảnh hưởng đến việc lãnh đạo, chỉ đạo, nắm bắt kịp thời tình hình ở tất cả các tổ chức Đảng cấp cơ sở trong toàn tỉnh, dễ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng cấp tỉnh đối với cấp cơ sở.
Bên cạnh đó, với những tổ chức Đảng cấp cơ sở ở những địa bàn đặc thù, xa xôi, nếu trình độ cán bộ hạn chế trong khi sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng cấp tỉnh không thường xuyên, kịp thời, sâu sát, dễ dẫn đến tình trạng không đảm bảo năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

Nhìn lại thực tế, Việt Nam đã trải qua nhiều thời điểm tách - nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Năm 1976, cả nước có 38 tỉnh thành, đến năm 1978 tăng lên 39 tỉnh thành, năm 1979 là 40, năm 1989 có 44 tỉnh, thành. Năm 1991, số đơn vị hành chính cấp tỉnh tăng lên 53, năm 1997 là 61, năm 2003 là 64 và từ năm 2008 đến nay là 63 tỉnh, thành.
Nhưng năm 2008 có lẽ là một dấu mốc đáng nhớ trong lịch sử tách - nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, khi toàn bộ diện tích và dân số của tỉnh Hà Tây được hợp nhất vào Hà Nội.
Khi đó, tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII, Chính phủ trình Quốc hội Tờ trình về việc mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội. Phương án ưu tiên của Chính phủ là sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình) vào thành phố Hà Nội.
Chủ trương này ngay lập tức tạo ra nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều. Nhiều người băn khoăn việc nguồn lực đầu tư phát triển sẽ bị dàn trải, sẽ thiếu và yếu khi diện tích Thủ đô mở rộng quá lớn, dân số quá đông.
Song sau quá trình thảo luận ở Quốc hội, phương án Chính phủ đưa ra đã đạt đồng thuận cao với tỷ lệ 92,9% tổng số đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/8/2008.
Đây là một quyết định quan trọng, mang tính lịch sử, không chỉ thay đổi diện mạo của Hà Nội mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến các khu vực lân cận.

Trước khi sáp nhập, Hà Tây là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng nhưng phát triển kinh tế còn hạn chế, hạ tầng chưa đồng bộ. Việc sáp nhập giúp địa phương tăng cường tiềm năng kinh tế, thu hút đầu tư và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng.
Với quyết sách quan trọng về việc mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội, sau 16 năm, kinh tế - xã hội và diện mạo của Thủ đô Hà Nội đã có sự phát triển vượt bậc, nhất là ở các vùng được sáp nhập về Hà Nội. Cơ sở hạ tầng của các địa phương sau khi sáp nhập vào Hà Nội cũng phát triển mạnh mẽ.
Năm 2008, GRDP bình quân đầu người của Hà Nội chỉ đạt 28,1 triệu đồng. Tới năm 2023, sau 15 năm mở rộng địa giới hành chính, GRDP bình quân đầu người của Hà Nội đã đạt tới 151,1 triệu đồng, gấp khoảng 5,38 lần so với năm 2008.
Nhớ lại thời điểm đó, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị chia sẻ cảm nhận bao trùm thời điểm hợp nhất Hà Nội, Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình), là sự lo lắng. Lo vì khối lượng công việc không những lớn mà rất mới và khó, trong khi áp lực về thời gian thực hiện lại rất gấp.
Lo quyết định hợp nhất bộ máy một, thì lo sắp xếp cán bộ mười. Ông Nghị nói rằng những việc liên quan đến con người, đụng chạm đến tâm tư, tình cảm, quyền và lợi ích con người, mới khó.
Bộ máy mới dù được sắp xếp tốt hơn nhưng nếu bố trí người không đúng, không phù hợp, theo nguyên Bí thư Hà Nội, cũng không phát huy được hiệu quả.
Một điều trăn trở khác được ông chia sẻ, là lo ngại cán bộ các địa phương hợp nhất nhưng phong cách, trình độ, kinh nghiệm làm việc không đồng nhất, không hợp tác được với nhau sẽ ảnh hưởng đến công việc.
Về tâm lý, ông Nghị cho biết khi đó đúng là một bộ phận cán bộ Hà Nội lo ngại, không muốn hợp nhất vì sợ sự chia sẻ nguồn lực sẽ làm hạ thấp chỉ số phát triển của Hà Nội.
Và ông, khi đó với vai trò là người đứng đầu cấp ủy, đã giải thích cho cán bộ rằng, phải vì tương lai phát triển lâu dài của Thủ đô, vì trách nhiệm với cả nước. Là Thủ đô của một đất nước một trăm triệu dân, Hà Nội cần có diện tích, không gian rộng lớn hơn.
Việc hợp nhất cũng không phải chỉ là chuyện hỗ trợ, hy sinh một chiều, mà bù lại, Hà Nội sau hợp nhất có điều kiện tốt hơn để phát triển.
Trước thời điểm sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội, ông Nghị cho biết cũng đã từng có những lần sáp nhập 2-3 tỉnh làm một, nhưng nhìn chung, việc đó đem lại cảm giác không thành công, dẫn đến câu chuyện "nhập vào rồi lại tách ra".

Thực tế ấy gây tâm lý lo lắng khi bắt đầu thực hiện chủ trương hợp nhất Hà Nội và Hà Tây, vì nhiều người lo ngại sẽ lại đi theo vết xe đổ "nhập rồi tách". Hơn nữa, Hà Nội với vị thế là Thủ đô của cả nước, nếu sau hợp nhất nếu tình hình không ổn định thì không những ảnh hưởng phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, mà còn ảnh hưởng đến cả nước. Bởi vậy khi ấy, lãnh đạo thành phố rất lo lắng.
Để chuẩn bị tốt, Hà Nội xác định trong tổ chức thực hiện có hai điều quan trọng cần phải làm. Một là phải làm thật tốt công tác tư tưởng, giải thích, động viên đúng mức, kịp thời đi kèm cơ chế, chính sách thỏa đáng đối với cán bộ.
Hai là phương pháp, cách làm phải công khai, dân chủ, công bằng để tạo sự đồng thuận trong đội ngũ cán bộ.
Nhìn lại bức tranh toàn cảnh của Hà Nội hiện nay so với 16 năm trước, nguyên Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị nói ông rất mừng khi nghị quyết của Quốc hội về mở rộng địa giới hành chính Hà Nội mang lại nhiều kết quả rõ nét.
