Kỳ tích trong hang đá ở thung lũng Đồng Mười
(Dân trí) - Một lò luyện gang được xây dựng trong hang đá tại tỉnh Thanh Hóa. Chỉ trong 3 năm, nơi đây đã sản xuất hơn 500 tấn gang, phục vụ chế tạo vũ khí, đóng góp quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Lò luyện gang trong hang đá
Lò cao kháng chiến Hải Vân, còn gọi là lò cao NX3, được đặt tại thung lũng Đồng Mười (thị trấn Bến Sung, huyện Như Thanh cũ), nay là xã Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Lò được thiết kế như một công trình quân sự kiên cố, hoạt động trong điều kiện khắc nghiệt nhất thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau hơn 70 năm, lò cao kháng chiến Hải Vân vẫn còn lại nhiều hiện vật, thiết bị máy móc (Ảnh: Thanh Tùng).
PGS.TS Mai Văn Tùng, Trưởng khoa Khoa học xã hội, Trường Đại học Hồng Đức (Thanh Hóa), đánh giá lò cao NX3 là công trình mang tầm vóc quốc gia, thể hiện sự kết hợp giữa trí tuệ, kỹ thuật và ý chí quyết tâm sắt đá của dân tộc trong hoàn cảnh thiếu thốn, hiểm nguy.
Sau hơn 70 năm, nhiều hiện vật, máy móc và hệ thống dây chuyền luyện gang vẫn còn được lưu giữ trong hang đá - minh chứng sống động cho giai đoạn hào hùng của dân tộc.
Ông Đinh Xuân Thắng, Phó Chủ tịch UBND xã Như Thanh, Trưởng ban quản lý di tích, cho biết lò cao kháng chiến Hải Vân được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2013.
Theo tài liệu lịch sử từ UBND xã Như Thanh cung cấp, năm 1947, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) xây dựng các lò luyện gang để chế tạo vũ khí. Ban đầu, lò được đặt tại Cầu Đất - Sông Con (thuộc huyện Con Cuông cũ, tỉnh Nghệ An).

Bia đá ghi lại những đóng góp to lớn của quân đội ta tại lò cao NX3 (Ảnh: Thanh Tùng).
Trong một lần đến thăm lò cao, ông Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, thấy cán bộ, công nhân bị sốt rét, ốm rất nhiều, điều kiện sinh hoạt công tác nhiều khó khăn nên đã quyết định đưa lò cao về miền xuôi ở Cát Văn (huyện Thanh Chương cũ), tỉnh Nghệ An, nâng công suất lên 6m3.
Không lâu sau, công trình lại bị máy bay Pháp ném bom phá hủy. Trong tình thế cấp bách, ông Võ Quý Huân - người đứng đầu Sở Khoáng chất Kỹ nghệ Trung Bộ thời bấy giờ - xin ý kiến từ Trung ương để tìm địa điểm thay thế.
Sau khi so sánh giữa Thái Nguyên và Thanh Hóa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn Thanh Hóa - nơi an toàn hơn về mặt quân sự. Thung lũng Đồng Mười, nay là xã Như Thanh, trở thành vị trí được lựa chọn.

Cổng vào lò cao NX3 (Ảnh: Thanh Tùng).
Năm 1949, nhiều kỹ sư nổi tiếng như Võ Quý Huân, Trần Đại Nghĩa, Trịnh Tam Tĩnh, Lương Ngọc Khuê… cùng đội ngũ công nhân lành nghề được điều động đến đây để xây dựng lò luyện gang.
Đến tháng 6/1950, hai lò cao đầu tiên mang ký hiệu NX1 và NX2 được thi công. Lò NX1 có dung tích 6,7m3 để sản xuất gang, NX2 dung tích nhỏ hơn (dung tích 1m3) dùng để thử nghiệm. Cả hai lò được ghép liên hoàn trên một quy mô bề thế.
Trong quá trình vận hành, máy bay Pháp liên tục ném bom phá hoại. Với tinh thần quyết tâm kháng chiến thắng lợi, đến ngày 19/2/1951, mẻ gang đầu tiên ra lò.
Tuy nhiên, trước diễn biến quân Pháp vẫn thường xuyên truy quét, để bảo vệ công trình, trong một lần tới thăm lò cao, kỹ sư Trần Đại Nghĩa quyết định di dời toàn bộ hệ thống lò vào trong hang đá Đồng Mười - khai sinh ra lò cao NX3.
Việc đưa cả một hệ thống luyện kim phức tạp vào lòng núi là hành trình gian nan. Quân đội phải dùng tới 400 quả mìn để mở rộng hang thành hai cửa ra vào, tạo nên không gian kiên cố, cách mặt đất 20m. Nhiều bộ phận kỹ thuật được cải tiến để phù hợp địa hình mới, như hệ thống thoát hơi nước, khói và hơi độc phải dẫn ra khỏi hang và được ngụy trang kỹ lưỡng để tránh sự phát hiện từ trên không.

Ngọn núi tại thung lũng Đồng Mười - nơi đặt lò cao NX3 (Ảnh: Thanh Tùng).
Lò cao NX3 trong hang đá có dung tích 8,3m3, cao 13m, mỗi ngày sản xuất trung bình 3 tấn gang. Tháng 11/1953, lò chính thức đi vào hoạt động. Cuối năm đó, lò được vinh danh mang tên “Lò cao kháng chiến Hải Vân” - ghi nhận những đóng góp to lớn vào chiến thắng tại đèo Hải Vân (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ).
Từ cuối năm 1951 đến tháng 7/1954, lò đã sản xuất hơn 500 tấn gang phục vụ sản xuất lựu đạn, súng cối, đạn Bazoka, chảo, nồi quân dụng cho chiến trường, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ. Đến tháng 12/1954, lò dừng hoạt động, khép lại hành trình lịch sử đầy hào hùng.
Kỳ tích của ngành quân giới
PGS.TS Mai Văn Tùng khẳng định, việc xây dựng lò cao kháng chiến Hải Vân là một kỳ tích. Trong bối cảnh đất nước bị chiến tranh tàn phá, cơ sở luyện gang này không chỉ là công trình kỹ thuật mà còn là biểu tượng của tinh thần tự lực, tự cường.

PGS.TS Mai Văn Tùng, Trưởng khoa Khoa học xã hội, Trường Đại học Hồng Đức (Ảnh: Thanh Tùng).
“Các kỹ sư ngành quân giới đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Việc lựa chọn thung lũng Đồng Mười là quyết định sáng suốt, vì nơi đây có vị trí địa lý, hệ thống giao thông, dân cư, quân sự đều rất thuận lợi. Đặc biệt là tài nguyên quặng sắt, than củi lim phong phú, đảm bảo hoạt động sản xuất gang ổn định”, ông Tùng nói.
Theo ông, di tích lò cao kháng chiến Hải Vân là một trong những cơ sở công nghiệp quân sự đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954.
“Giá trị quân sự của di tích lò cao NX3 thể hiện rõ vị trí và vai trò của hậu phương vững chắc, nơi mà ý chí tự lực, tự cường, tinh thần chiến đấu và khả năng tổ chức chiến tranh được thể hiện một cách sáng tạo”, PGS.TS Mai Văn Tùng nhấn mạnh.
Ông cũng cho rằng xét từ góc độ giá trị lịch sử quân sự, lò cao kháng chiến Hải Vân thể hiện rõ nét mối liên hệ mật thiết giữa hậu phương và chiến trường, giữa sản xuất và chiến đấu, giữa phát triển công nghiệp nặng và bảo đảm hậu cần cho chiến trường, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trường kỳ của dân tộc.

Lò gió nóng trong hang đá (Ảnh: Thanh Tùng).
“Lò cao kháng chiến Hải Vân đã trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống sản xuất gang, thép cho quốc phòng được vận hành hoàn toàn bằng trí tuệ, sức lao động sáng tạo của nhân dân và huy động nguồn tài nguyên trong nước về đây để phục vụ tất cả cho tiền tuyến.
Ý nghĩa đặc biệt của lò cao NX3 là tất cả gang được sản xuất từ những phương tiện thô sơ, nhưng sản lượng đạt được lớn. Chính điều này đã giúp duy trì được nguồn lực ổn định, đồng thời thể hiện rõ tinh thần tự cường, tự lực trong chiến tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc”, ông Tùng phân tích.
Ngoài ra, quá trình xây dựng và vận hành lò cao kháng chiến Hải Vân còn phản ánh một bài học sâu sắc về công tác tổ chức quân sự trong điều kiện kháng chiến lâu dài. Là triển khai các công việc phải phù hợp với thực tiễn, phối hợp nhịp nhàng giữa cán bộ, công nhân kỹ thuật, bộ đội. Điều đó góp phần quan trọng để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Những câu khẩu hiệu được ghi trên vách hang, nhằm cổ vũ, động viên quân đội ta hăng say sản xuất (Ảnh: Thanh Tùng).
PGS.TS Mai Văn Tùng cũng phân tích thêm, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi Việt Nam chưa thiết lập được quan hệ viện trợ chính thức từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô hay Trung Quốc, việc xây dựng một cơ sở luyện kim nội địa như lò cao kháng chiến Hải Vân mang ý nghĩa chiến lược to lớn đối với an ninh và quốc phòng quốc gia.
“Cơ sở luyện kim trong hang đá không chỉ cung cấp nguồn gang cần thiết cho sản xuất vũ khí mà còn khẳng định khả năng tự chủ về kỹ thuật - quân sự của một nước nhỏ, mới giành lại nền độc lập lại phải đương đầu với một cường quốc như thực dân Pháp”, ông Tùng chia sẻ.
Ông cũng cho rằng lò cao kháng chiến Hải Vân còn là biểu tượng về lao động sáng tạo và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Trong lòng núi rừng thâm nghiêm, nơi từng vang vọng tiếng búa, sắc màu lửa đỏ lò luyện gang, là cả một câu chuyện về lòng yêu nước không lời, về sự hy sinh thầm lặng của biết bao con người. Họ không ra trận bằng súng đạn, nhưng đã hy sinh thầm lặng, góp phần tạo nên sức mạnh hậu phương cùng tiền tuyến chiến đấu giữ gìn nền độc lập của dân tộc.
Ông Đinh Xuân Thắng, Phó Chủ tịch UBND xã Như Thanh, Trưởng ban quản lý di tích Lò cao kháng chiến Hải Vân, cho biết nhiều năm qua, lò cao kháng chiến Hải Vân là địa chỉ đỏ để giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và lòng tự hào với những chiến công của cha ông ta.
Ông Thắng cho biết địa phương cũng thường xuyên tổ chức các buổi tham quan và các chương trình để học sinh trải nghiệm, hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành cũng như ý nghĩa của di tích.
Theo ông Thắng, trước những giá trị lịch sử và quân sự của di tích, tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt dự án tôn tạo và bảo tồn, với tổng kinh phí 37 tỷ đồng, trên nền diện tích 26,7ha.

Trải qua hơn 70 năm, những chứng tích lịch sử của lò cao NX3 vẫn còn vẹn nguyên (Ảnh: Thanh Tùng).
“Sau khi hoàn thiện dự án, đây sẽ là điểm đến không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn là nơi thu hút đông đảo du khách tham quan, du lịch, đặc biệt là các thế hệ học sinh, sinh viên. Bởi, di tích lò cao kháng chiến Hải Vân có khoảng cách gần với Vườn quốc gia Bến En - một trong những khu du lịch nổi tiếng của Thanh Hóa”, ông Thắng nói.
Hiện nay một số hạng mục dự án đã được hoàn thiện, địa phương đã hoàn tất các thủ tục để triển khai các hạng mục tiếp theo.
“Tới đây, chúng tôi sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, đầu tư vào sự phát triển của di tích, đồng thời đưa công nghệ số, thu hút du khách tham quan di tích. Vừa qua, sau khi sắp xếp xong bộ máy hành chính cấp xã, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, chúng tôi đã kiện toàn lại ban tổ chức, thành lập ban quản lý khu di tích”, ông Thắng nói.