Tâm điểm
Nguyễn Hữu Huân

Thí điểm bỏ “room” tín dụng

Theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang khẩn trương xây dựng lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (room tín dụng).

Trước hết cần khẳng định, chủ trương bỏ “room” tín dụng gắn với việc NHNN chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, nhằm đảm bảo hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Vấn đề còn lại là xem xét giai đoạn nào chín muồi để thực hiện.

Bản chất của “room” tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Có thể hình dung công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được.

Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, “room” tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Song về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được NHNN giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn.

Thí điểm bỏ “room” tín dụng - 1

Bản chất của “room” tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn (Ảnh minh họa: Tiến Tuấn).

Tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng “room” tín dụng, NHNN vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở (NHNN) thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên), tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có “room” tín dụng, NHNN vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở.

Việc bỏ “room” tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Giai đoạn 2007-2008, tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng lên đến 25-28% gây ra lạm phát. Việc bỏ “room” tín dụng sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn, song nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô.

Tất nhiên, NHNN vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi.

Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ “room” tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ “room” trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường.

Nhìn chung, khi bỏ “room” tín dụng, các ngân hàng sẽ được chủ động hơn, bỏ được cơ chế xin - cho, các ngân hàng thương mại được “cởi trói”. Tùy vào năng lực, mỗi ngân hàng có thể phát triển theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. NHNN sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn, và ngược lại.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn (Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, v.v.) nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách.

Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ “room” tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ NHNN.

Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát.

Tác giả: PGS.TS Nguyễn Hữu Huân là Giám đốc chương trình đào tạo Thị trường chứng khoán, Đại học Kinh tế TPHCM. Ông là chuyên gia tư vấn cấp cao trong lĩnh vực kinh tế - tài chính; nhà sáng lập của một công ty về trí tuệ nhân tạo tại Singapore và Việt Nam (Promete.AI) và 1 công ty fintech trong lĩnh vực đầu tư - Công ty cổ phần công nghệ Finbot.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!