40 năm đổi mới đưa đất nước bứt phá, người dân hưởng thành quả phát triển
(Dân trí) - Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực an sinh xã hội, góp phần đưa đất nước thoát đói nghèo, bảo đảm quyền con người và nâng cao đời sống nhân dân.

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và đường lối phát triển đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; các chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện, tiệm cận chuẩn mực quốc tế, bảo đảm an sinh và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giải quyết các vấn đề xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng. Hệ thống chính sách xã hội được bổ sung, sửa đổi, thể chế hóa theo hướng bảo đảm các quyền cơ bản của con người phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và với các tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.


Hoàn thiện hệ thống chính sách, thể chế hóa nhận thức và tư tưởng mới
Chính sách, pháp luật của nhà nước về phát triển xã hội là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong cuộc sống. Một thành công không thể phủ nhận, đó là hệ thống chính sách trong lĩnh vực xã hội nói chung và của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là ngành Nội vụ) nói riêng, đã được ban hành khá đầy đủ, kịp thời chuyển hóa phần lớn các tư tưởng, nhận thức mới vào cuộc sống.
Nhờ đó, mặc dù trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, các vấn đề xã hội đã được giải quyết một các cơ bản, giữ được ổn định chính trị, xã hội, tạo tiền đề và cơ sở cho phát triển trong thời gian tới.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, đáng chú ý nhất chính là Hiến pháp 1992 và 2013, đã trực tiếp tạo nền tảng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội trên cơ sở đề cao nhân tố con người, tôn trọng quyền con người; bảo đảm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tạo tiền để để người dân tham gia quản lý xã hội; tập trung nhiều chính sách vào nhóm người có công và hỗ trợ người nghèo, phụ nữ, trẻ em và các nhóm đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Bảo vệ người lao động trong bối cảnh kinh tế nhiều thành phần
Trên cơ sở Hiến pháp, hệ thống chính sách từng bước thể chế hóa và bảo đảm quyền cơ bản của con người phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và với các tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.
Các chính sách trong lĩnh vực lao động liên tục được cập nhật, sửa đổi phù hợp với các chính sách kinh tế, bảo đảm truyền tải nhanh các kết quả và thành tựu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân, thúc đẩy công bằng xã hội và ngày càng được hoàn thiện (đối tượng mở rộng, tiếp cận về quyền, gắn với đóng - hưởng…), hướng đến mục tiêu tăng cường phúc lợi xã hội, phát triển xã hội và an sinh xã hội.


Hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, tiền lương một mặt thể chế hoá quyền và nghĩa vụ của người lao động trong làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bảo đảm tiền lương được thực hiện theo cơ chế thị trường (thỏa thuận, thương lượng), song lại bảo vệ người lao động có mức tiền lương đầy đủ theo năng suất, chất lượng công việc, đồng thời phải bảo đảm không bị rơi vào nghèo đói (không thấp hơn tiền lương tối thiểu do nhà nước quy định).
Ngoài ra, các chính sách cũng hướng tới bảo vệ các quyền lợi cho người lao động như cải thiện môi trường làm việc; chế độ nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe, an toàn vệ sinh; các chính sách “bà đỡ” nhằm cho vay tín dụng tạo việc làm, hỗ trợ người yếu thế tìm việc làm; đối thoại, thương lượng, thỏa thuận trong quan hệ lao động trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí…


Việt Nam luôn đảm bảo tỷ lệ dân số có việc làm thuộc nhóm cao trên thế giới, đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp dưới 3% (giai đoạn 2011-2020), ngay cả trong bối cảnh đại dịch Covid-19 cũng chỉ tăng nhẹ lên 3,22% vào năm 2021 và giảm còn 2,13% năm 2022.
Thị trường lao động ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, kéo theo cơ cấu dịch chuyển tích cực. Thu nhập của người lao động đã dần được cải thiện, tiền lương bình quân thực tế theo tháng của người làm công hưởng lương có tốc độ tăng khá nhanh, đạt 12,15% giai đoạn 2011-2022.
Phương thức quản lý nhà nước về quan hệ lao động có sự chuyển đổi và cải thiện rõ rệt. Thực tiễn áp dụng các quy định về an toàn vệ sinh lao động cũng được nâng lên đáng kể, việc trang bị phương tiện bảo hộ cá nhân và tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động được các doanh nghiệp thực hiện tương đối tốt.


Trong thời gian qua, việc làm được đảm bảo trên cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng); tăng cường đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động để đáp ứng yêu cầu của thị trường; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả kết nối cung và cầu; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo thị trường để cung cấp kịp thời tới người dân, doanh nghiệp và xã hội; hỗ trợ người lao động nhất là người yếu thế, lao động nghèo có việc làm thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi và các hỗ trợ sinh kế khác.
Bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, an sinh chủ động chiếm một vị trí quan trọng. Nhà nước đã từng bước tạo môi trường thể chế để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp tạo điều kiện để chủ động khắc phục các rủi ro do mất việc làm, mất sức khỏe, tuổi già,…
Gần 40 năm đổi mới, chính sách an sinh xã hội khẳng định vai trò là xương sống của hệ thống chính sách xã hội trong đảm bảo công bằng tiếp cận và thụ hưởng phúc lợi của người dân; giảm nghèo là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 10,5 triệu người năm 2012 lên 13,05 triệu người năm 2016 và 16,2 triệu người năm 2020. Dù đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, nhưng tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội vẫn tiếp tục tăng, đạt 16,6 triệu người năm 2021, đạt 17,5 triệu người năm 2022.


Chính sách trợ giúp xã hội (trợ giúp xã hội) được mở rộng về đối tượng, tăng mức hưởng, thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng và đạt hiệu quả. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng cần hỗ trợ, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Nhiều địa phương đã chủ động tăng ngân sách cho trợ giúp xã hội, điều chỉnh nâng mức trợ cấp hằng tháng cao hơn mức chuẩn chung hoặc mở rộng diện thụ hưởng chính sách. Số
người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hằng năm, đạt 3,5 triệu người trong năm 2021 (trên 55% là người cao tuổi). Đáng chú ý nhất là trong giai đoạn Covid-19 (năm 2020-2022), trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người và các đối tượng khác đã được hỗ trợ trên 120.000 tỷ đồng theo 4 gói chính sách của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng.
Người dân được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản; giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch tối thiểu; tiếp cận thông tin…


Giảm nghèo tiếp tục là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong gần 40 năm đổi mới, mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói được hoàn thành.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần theo thời gian cùng quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là giai đoạn 2016-2020, mặc dù áp dụng chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều và nâng chuẩn nghèo thu nhập cao hơn so với giai đoạn trước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo cũng liên tục giảm bình quân 1-1,5%/năm, từ 9,88% năm 2016 xuống còn 2,75% năm 2020 và còn 2,23% năm 2021. Các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm 4%/năm.
Giảm nghèo tiếp cận theo hướng đa chiều được triển khai quyết liệt, đồng bộ, đổi mới về phương thức, giải pháp thực hiện, tập trung vào các đối tượng nghèo nhất với nhiều mô hình mới, cách làm hay, gắn kết giữa tạo sinh kế, việc làm, đào tạo nghề và đưa người lao động sang nước ngoài làm việc; nhiều địa phương ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân chủ động vươn lên thoát nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, cận nghèo được cải thiện, người nghèo đã có tài sản và được đảm bảo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đặc biệt
Chính sách người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện tốt, đã trở thành phong trào đền ơn đáp nghĩa sâu rộng, xuyên suốt từ Trung ương đến các làng bản, thôn xóm.
Đối tượng người có công được mở rộng với chế độ và chính sách ưu đãi phù hợp; mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được nâng lên để đảm bảo mức sống của gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú.


Các chính sách được triển khai hướng đến tập trung chỉ đạo quyết liệt giải quyết hồ sơ tồn đọng, công tác xác nhận người có công được tổ chức thực hiện đảm bảo không bỏ sót những người có đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế; xây dựng, nâng cấp, tu bổ mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ trên khắp cả nước. Công tác quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính liệt sĩ được thực hiện tốt.
Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công; có trên 1,2 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng, mỗi năm giải quyết chế độ trợ cấp một lần cho 10.000-12.000 trường hợp, 512.000 lượt người có công được điều dưỡng luân phiên.
Giai đoạn 2013-2019, cả nước đã cơ bản hoàn thành hỗ trợ dứt điểm nhà ở cho 339.176 hộ người có công trên cả nước đạt tỷ lệ 96,7%; 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú.
* Tài liệu: Tham luận "Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới: Việc xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách giải quyết các vấn đề xã hội: an sinh xã hội, quan hệ lao động, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, mâu thuẫn xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội" tại Hội thảo khoa học “Lịch sử, truyền thống và định hướng phát triển của Bộ Nội vụ giai đoạn 2025-2045”.