(Dân trí) - Trong thế kỷ 20, chỉ sau một vài tuần lễ, khoản tiền tiết kiệm cả đời của người dân Đức có khi chỉ mua được... ổ bánh mỳ, trẻ em thì lấy tiền để gấp máy bay, còn Hungary phát hành luôn 2 đồng tiền...
Khi mà giá khí đốt liên tục tăng cao tại Mỹ, cánh lái xe tại thành phố Los Angeles đang dần trở nên mất kiên nhẫn. Hồi tuần trước, giá xăng đã tăng lên mốc gần 8 USD/gallon (tương đương hơn 48.400 đồng/lít - PV), ghi nhận tại nhiều địa điểm cung cấp xăng dầu trên địa bàn thành phố này. Và cuộc xung đột Ukraine chẳng khác gì "đổ thêm dầu vào lửa".
"Thật là điên rồ", Beth Rooney, một chuyên viên thiết kế 26 tuổi, chia sẻ với phóng viên tờ El Páis ngay tại trạm xăng trên địa bàn thành phố Culver, nơi giá xăng được ghi nhận ở ngưỡng 6 USD/gallon (tương đương hơn 36.300 đồng/lít - PV) vào ngày đó.
"May mắn thay, tôi vẫn đang trong thời gian được làm việc tại nhà, nhưng nhiều bạn bè của tôi đã quay trở lại văn phòng, và tiền lương của họ thì cạn kiệt dần vì giá xăng dầu quá cao. Tình hình đang trở nên ngày càng khó khăn hơn", Rooney chia sẻ. Chỉ với vài tuần trước thôi, chi phí để đổ đầy bình xăng của cô thấp hơn thời điểm hiện tại tới 30%.
Tình trạng tăng giá xăng dầu diễn ra trong bối cảnh thế giới đang nỗ lực quay trở lại trạng thái bình thường sau hai năm đại dịch Covid-19 hoành hành, khiến cho một loạt các biện pháp kiểm soát dịch bệnh được thiết lập. Trong khi một số ít người lao động vẫn có thể làm việc từ xa, hàng triệu người dân đã bắt đầu quay trở lại văn phòng làm việc của họ chỉ tính trên địa bàn bang California- một trong những bang cuối cùng của Mỹ tiến hành nới lỏng các biện pháp phòng chống dịch bệnh. California đã không ít lần phải đối mặt với những cơn hạn hán nghiêm trọng trong suốt nhiều thập kỷ qua, nhưng chỉ vài tuần trở lại đây, người dân của bang này lại tỏ ra vô cùng bất an về một loại chất lỏng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền kinh tế: đó chính là xăng.
Joe, một thợ làm vườn 32 tuổi, trăn trở không ít trước thực trạng giá nhiên liệu tăng cao tại Los Angeles, thành phố sở hữu quãng đường lái xe trung bình của người dân lên tới 34 km mỗi ngày.
Chỉ vài ngày trước thôi, anh đã có mặt tại một trạm xăng tại khu vực Castle Heights, trung tâm thành phố, nằm trên trục đường mà anh đi làm hàng ngày. Tại đó, giá xăng mới chỉ tiệm cận ở ngưỡng 6 USD/gallon. "Tôi đã thật may mắn vì tôi làm việc gần khu vực này, và tôi không phải lái xe lòng vòng để tìm được chỗ đổ xăng có giá cả phải chăng hơn. Như người ta vẫn nói đấy, Chúa không triệt đường sống của ai", anh cười.
Tuy nhiên, anh đã trở nên nghiêm túc ngay sau đó khi thừa nhận rằng bản thân đang cân nhắc nâng giá dịch vụ của mình, tuy nhiên anh cũng lo ngại rằng mình sẽ "mất mối" làm ăn nếu như chi phí gia tăng. "Tình hình hiện tại thực sự khó khăn và chúng tôi không thể biết được cho tới khi nào vấn đề này sẽ được giải quyết", anh chia sẻ với El Páis.
KHẮP NƠI LẠM PHÁT
Chi phí năng lượng, thực phẩm và dịch vụ tăng cao đã góp phần đẩy lạm phát tại Mỹ trong tháng 2 vừa qua lên mốc 7,9%, cao nhất trong vòng 40 năm trở lại đây. Với việc thị trường hàng hóa và dầu mỏ đang đối mặt với nguy cơ đứt gãy do cuộc khủng hoảng tại Ukraine, áp lực giá cả, vốn bắt nguồn từ thời gian đại dịch Covid-19, chắc chắn sẽ vẫn chưa thể hạ nhiệt.
Chỉ số giá tiêu dùng, đơn vị đo lường chi phí hàng hóa và dịch vụ xuyên suốt nền kinh tế, chưa chứng kiến lần tăng mạnh nào như thế kể từ tháng 1/1982, khi tăng tới 8,2%. Tại thời điểm đó, nền kinh tế Mỹ đang rơi vào suy thoái và đang nỗ lực nhằm kiểm soát tốc độ lạm phát từng có thời điểm lên đến 2 con số.
Giá năng lượng tăng cao, trong đó có giá xăng, đã góp phần không nhỏ làm tăng tỷ lệ lạm phát, bên cạnh đó phải kể đến chi phí hàng hóa, thực phẩm, dịch vụ vận tải, may mặc, theo thông tin từ Bộ Lao động Mỹ.
Nhu cầu hàng hóa tăng cao từ người tiêu dùng, và những nút thắt chuỗi cung ứng bắt nguồn từ đại dịch Covid-19 đã khiến cho lạm phát không ngừng leo thang trong một năm trở lại đây. Thị trường lao động khó khăn khi số lượng việc làm mới nhiều hơn số lượng người lao động thực tế đang tìm kiếm một công việc mới đã góp phần thúc đẩy mức lương cơ bản, khiến cho không ít doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn tuyển dụng thêm nhân công để đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Các chuyên gia kinh tế cũng dự báo tình hình có thể diễn biến xấu hơn khi giá dầu thô trong tháng 3 này đã có thời điểm leo lên mốc cao nhất kể từ năm 2008, và giá xăng, dầu tại Mỹ cũng đã chạm ngưỡng cao kỷ lục.
Lạm phát cao cũng đã và đang ảnh hưởng tới khu vực các quốc gia Liên minh châu Âu - EU trong bối cảnh giá năng lượng biến động mạnh sau khi căng thẳng nổ ra giữa Nga và Ukraine. Những biện pháp trừng phạt chống lại Moscow đã được đưa ra nhằm giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế Nga. Khu vực châu Âu, bao gồm các quốc gia như Bỉ, Đức, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha và Phần Lan, cùng với nhiều quốc gia khác chắc chắn sẽ phải đối diện với một khoảng thời gian khó khăn sắp tới.
Vấn đề nguồn cung và giá năng lượng tăng cao chắc chắn sẽ là áp lực đè nặng lên vai các lãnh đạo Ngân hàng Trung ương châu Âu khi họ lên kế hoạch về tương lai chính sách tiền tệ tại khu vực này. Vượt lên trên mọi dự báo trước đó, trong tháng 2, tỷ lệ lạm phát hàng năm tại khu vực châu Âu đã tăng kỷ lục 5,8%, cao hơn 0,7% so với tháng trước đó. Giá năng lượng chính là yếu tố có sức ảnh hưởng lớn nhất. Hơn 40% tổng nhu cầu năng lượng của lục địa già được đáp ứng bởi Nga.
Kỳ vọng lạm phát tại Nhật Bản cũng đã tăng cao lên ngưỡng kỷ lục trong tháng 3 này, theo kết quả một cuộc khảo sát của chính phủ. Người dân cho rằng giá cả sẽ leo thang do những ảnh hưởng từ tình trạng tăng giá năng lượng và thực phẩm toàn cầu, có liên quan tới cuộc khủng hoảng Ukraine.
Có một điều kỳ lạ rằng kỳ vọng lạm phát ở mức cao là tín hiệu tốt giúp Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đạt được mức lạm phát mục tiêu 2% của mình, nhưng với việc chi phí nguyên liệu thô tăng cao, tiêu dùng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung sẽ bị ảnh hưởng, trừ khi chi phí lao động cũng phải được tăng lên.
Kỳ vọng lạm phát tiêu dùng hàng năm đã chạm ngưỡng 2,67% trong tháng 3, cao hơn so với 2,43% của tháng trước đó. Đây là mức cao nhất kể từ khi dữ liệu được công bố vào năm 2014.
Trong số những người tham gia khảo sát, 15,5% dự báo giá cả sẽ tăng khoảng 3% trong vòng 1 năm kể từ thời điểm hiện tại, trong khi đó, trong tháng 2, con số này chỉ là 13,7%. Đây là tỷ lệ cao nhất được ghi nhận từ năm 2019.
NHÌN LẠI THẾ KỶ CỦA DƯ THỪA, LẠM PHÁT
Thế kỷ 20 có thể được nhớ đến là thế kỷ của sự dư thừa. Hầu như mọi thứ đều được làm ra nhiều hơn trong thời gian này so với các giai đoạn lịch sử khác và trong một vài trường hợp, nhiều hơn tất cả quãng thời gian trước đó cộng lại.
Thế kỷ 20 cũng là quãng thời gian xảy ra nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử loài người, với sự ra đời của bom nguyên tử, quá trình thuộc địa hóa và phi thuộc địa hóa tại các quốc gia thế giới thứ 3 và sự phát triển và thoái trào của chủ nghĩa Cộng sản. Bên cạnh đó, đây cũng là một thế kỷ của sự phát triển trên nhiều mặt ví dụ như loài người đã có thể khám phá không gian vũ trụ, dân số bùng nổ, chất lượng cuộc sống được cải thiện, máy tính dần trở nên phổ biến, các thành tựu khoa học, y tế cũng liên tiếp được xướng tên.
Thế kỷ 20 cũng là thế kỷ "sản sinh" ra nhiều giai đoạn lạm phát nhất trong lịch sử. Lạm phát không phải điều gì đó quá mới mẻ. Nó đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 3 khi những nhà cầm quyền người Roman đã cho giảm giá trị đồng tiền xu của họ. Trung Quốc cũng đã phải trải qua một giai đoạn lạm phát nghiêm trọng trong thế kỷ 14 khi tiền giấy được ra đời để thay thế tiền xu. Châu Âu và phần còn lại của thế giới cũng phải đối mặt với lạm phát khi vàng và bạc tràn vào các quốc gia "thế giới cũ" từ các quốc gia "thế giới mới" trong thế kỷ 16. Và những cuộc cách mạng tại Pháp và Mỹ cũng đã "phá hủy" đồng tiền bản địa tại mỗi quốc gia này. Thế nhưng, thế kỷ 20 lại "sản sinh" ra những giai đoạn lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử loài người.
Đức
Không cần bàn cãi gì, một trong những ví dụ điển hình về một giai đoạn lạm phát tồi tệ nhất trong thế kỷ 20 đó chính là Đức, vào năm 1923. Theo Hiệp ước Versailles, Đức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các quốc gia Đồng minh. Tuy nhiên Đức đã mất khả năng thanh toán vào năm 1922, nói rằng họ không còn có thể đáp ứng khoản đền bù "khổng lồ" đó nữa.
Phía Pháp tỏ ra không tin tưởng lý lẽ của phía Đức, khi cho rằng quốc gia này cố tình trì hoãn chi trả thiệt hại, thay vì mất khả năng làm điều đó. Họ đã cho quân chiếm đóng thung lũng Ruhr, một địa danh có vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp tại Đức. Chính phủ Đức đã yêu cầu người lao động tại đây thực hiện "phản kháng bị động". Theo đó, họ sẽ ngưng làm việc nhưng chính phủ vẫn tiếp tục trả họ tiền lương. Để có thể làm được điều đó, chính phủ Đức đã phải in thêm tiền, qua đó kéo tụt giá trị đồng Mark.
Cuộc khủng hoảng này đã nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính phủ Đức: khoản tiền tiết kiệm cả một đời người sau một vài tuần lễ "rẻ rúng" không bằng một ổ bánh mỳ. Tầng lớp trung lưu là bộ phận bị tác động nặng nề nhất. Họ là những người được trả lương, do đó có nhiều tiền tiết kiệm. Thế nhưng khoản tiết kiệm của họ đã gần như mất hoàn toàn giá trị trong khi giá cả thị trường thì tăng vọt.
Thực phẩm và hàng hóa cơ bản chứng kiến mức nhảy vọt "khủng khiếp" nhất. Tại Berlin, một ổ bánh mỳ tại thời điểm cuối năm 1922 chỉ có giá 160 mark. Một năm sau đó, giá của nó đã tăng tới... 2 tỷ mark. Cuộc khủng hoảng này cuối cùng cũng đã chấm dứt vào năm 1925, nhưng nó đã mang lại sự thống khổ cho hàng triệu người dân quốc gia này.
Hy Lạp
Trường hợp tiếp theo là Hy Lạp. Năm 1941, Đức tấn công Hy Lạp, khiến cho giá cả hàng hóa tại đây tăng vọt khi người dân tích trữ hàng hóa khi cho rằng chiến tranh sẽ làm gián đoạn nguồn cung. Phe Trục (các quốc gia chiến đấu chống lại lực lượng Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai - PV) đã chiếm quyền kiểm soát hoạt động công nghiệp tại Hy Lạp và bắt đầu cho xuất khẩu hàng hóa với giá đặc biệt thấp, khiến cho đồng drachma của quốc gia này trở nên rẻ hơn đáng kể so với các đồng tiền khác trong khu vực.
Làn sóng tích trữ hàng hóa và tâm lý lo sợ thiếu hụt nguồn cung đã lên tới đỉnh điểm khi Hy Lạp bị hải quân bao vây. Giá cả hàng hóa khi đó vì đó đã không ngừng tăng lên. Phe Trục đã yêu cầu Ngân hàng Trung ương Hy Lạp in thêm tiền, qua đó dìm sâu thêm đồng drachma.
Nhận thấy tình hình diễn biến phức tạp, phía Đức đã có những biện pháp nhằm hạ nhiệt tình trạng "siêu lạm phát" tại đây, nhưng cũng phải mất đến vài năm giá cả hàng hóa mới quay trở lại ngưỡng kiểm soát và lạm phát hạ xuống mốc dưới 50%.
Hungary
Một quốc gia châu Âu khác cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Năm cuối cùng của Thế chiến thứ hai là một năm tồi tệ đối với nền kinh tế Hungary. Chính phủ quốc gia này nắm quyền kiểm soát hoạt động in tiền, và lực lượng quân đội Xô Viết cũng bắt đầu cho phát hành một loại tiền quân sự của riêng họ.
Trong vòng 9 tháng từ cuối năm 1945 cho tới tháng 7/1946, tỷ lệ lạm phát tại Hungary được ghi nhận ở mức cao chưa từng có. Quốc gia này đã phải phát hành thêm một đồng tiền mới adópengő bên cạnh đồng tiền cũ pengő, dùng để nộp thuế và chi trả chi phí bưu tín.
Giá trị của hai đồng tiền này được thông báo hàng ngày qua hệ thống đài phát thanh. Tại thời điểm lạm phát đạt đỉnh, giá cả hàng hóa tăng lên gấp 2 lần chỉ sau mỗi 15,6 tiếng đồng hồ.
Để giải quyết vấn đề này, đồng tiền cũ phải được thay thế hoàn toàn, và trong tháng 8/1946, đồng forint ra đời.
Trung Quốc
Đến với khi vực châu Á, chúng ta không thể không nhắc tới Trung Quốc. Trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Trung Quốc, vốn chịu vô vàn thiệt hại, lại bị chia cắt bởi nội chiến. Hai đảng tranh nhau giành quyền kiểm soát đất nước, và thậm chí mỗi bên còn cho phát hành nhiều đồng tiền riêng trong thời kỳ đó, khiến cho hệ thống tiền tệ tại Trung Quốc bị phân hóa thành 10 phương thức trao đổi hàng hóa chính vào năm 1948.
Đề có tiền trang trải phục vụ cuộc đấu tranh, Quốc dân Đảng đã chấp nhận đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách lớn, điều họ dự định sẽ in thêm tiền để khỏa lấp, khiến cho lạm phát leo thang nghiêm trọng. Họ thậm chí còn kéo Ngân hàng Trung ương Đài Loan vào cuộc, khiến cho lạm phát lan sang cả hòn đảo này.
Nam Tư
Việc Xô Viết sụp đổ cũng đã làm giảm vai trò trên trường quốc tế của Nam Tư - một quốc gia có vị trí địa chính trị quan trong kết nối hành lang Đông Tây. Điều này dẫn đến việc Nam Tư bị phân tách thành một vài quốc gia khác nhau và hệ quả là nhiều cuộc chiến đã nổ ra trong khoảng thời gian vài năm sau đó giữa các phe phái nhằm khẳng định chủ quyền của riêng mình.
Trong thời gian này, thương mại giữa các khu vực của Nam Tư cũ bị đình trệ, và sản lượng công nghiệp tại quốc gia này cũng giảm sút nghiêm trọng. Cùng thời điểm đó, các lệnh cấm vận quốc gia cũng được áp dụng.
Nước cộng hòa Ba Tư mới được thành lập, trái ngược với những quốc gia khác như Serbia và Croatia, đã giữ lại phần lớn bộ máy chính quyền từ trước thời gian phân tách, qua đó khiến cho thâm hụt ngân khố của quốc gia này luôn ở mức cao. Nhằm nỗ lực bù đắp cho các khoản thâm hụt này, ngân hàng Trung ương đã cho in tiền thiếu kiểm soát và gây ra tình trạng lạm phát leo thang.
Như chúng ta có thể thấy, những giai đoạn lạm phát nghiêm trọng thường xảy ra gắn liền với những xung đột địa chính trị, giống như mối quan hệ giữa Nga và Ukraine ở thời điểm hiện tại.
CÁC QUỐC GIA KIỂM SOÁT LẠM PHÁT THẾ NÀO?
Lạm phát nổ ra khi một nền kinh tế phát triển thông qua gia tăng chi tiêu mà không đi liền với gia tăng sản lượng sản xuất hàng hóa và dịch vụ. khi điều đó xảy ra, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên và giá trị đồng tiền lưu thông trong nền kinh tế có giá trị thấp hơn so với trước đó. Hay nói cách khác, với cùng một số lượng tiền nhưng trong thời kỳ lạm phát chúng ta mua được ít hàng hóa hơn.
Khi giá trị một đồng tiền giảm xuống, tỷ giá hối đoái của nó cũng vì thế mà yếu đi khi so sánh với các đồng tiền khác. Tuy nhiên, điều đó còn phụ thuộc vào mức độ lạm phát tại mỗi quốc gia.
Có nhiều phương pháp có thể áp dụng để kiểm soát lạm phát. Một số biện pháp đã chứng minh được tính hiệu quả của nó, nhưng một số khác lại mang tới những hệ quả không mong muốn. Ví dụ, kiểm soát lạm phát thông qua kiểm soát lương và giá cả có thể gây ra tình trạng suy thoái nền kinh tế và gia tăng thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thu hẹp
Một phương pháp phổ biến nhằm kiểm soát lạm phát đó chính là thắt chặt chính sách tiền tệ. Mục tiêu của phương pháp này là giảm nguồn cung tiền trong nền kinh tế thông qua giảm giá trái phiếu và nâng lãi suất.
Điều đó sẽ khiến cho chi tiêu giảm xuống vì khi có ít tiền lưu hành trên thị trường hơn, người dân sẽ có xu hướng giữ tiền thay vì chi tiêu nhiều như trước. Điều đó cũng có nghĩa nguồn vốn tín dụng cũng không còn dồi dào như trước. Giảm chi tiêu có vai trò tương đối quan trọng trong bối cảnh giá cả leo thang vì nó chắc chắn sẽ kéo giảm lạm phát, nhưng quốc gia áp dụng nó sẽ phải cân nhắc đánh đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình.
Có 3 công cụ chính để thi hành kế hoạch thắt chặt chính sách. Đầu tiên đó là nâng lãi suất ngân hàng Trung ương. Trong trường hợp của Mỹ, đó chính là Fed. Lãi suất quỹ Liên bang chính là mức lãi suất các ngân hàng phải trả khi vay tiền từ ngân khố quốc gia, nhưng mức lãi suất đó có thể tăng lên nếu như các ngân hàng đó sử dụng nguồn tiền đi vay nhằm mục đích sinh lợi.
Khi Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất, các ngân hàng nhỏ hơn sẽ không còn cách nào khác ngoài việc cũng tăng lãi suất theo. Khi điều đó xảy ra, sẽ có ít người muốn vay tiền hơn vì chi phí tín dụng lúc này sẽ đắt đỏ hơn. Do đó, khi chi tiêu hạ xuống, giá cả cũng sẽ hạ xuống, và lạm phát cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Quy định dự trữ bắt buộc
Công cụ thứ hai đó chính là nâng hạn mức dự trữ bắt buộc- khoản tiền mà các ngân hàng bắt buộc phải nắm giữ nhằm phòng tránh rủi ro người gửi tiền rút tiền ồ ạt. Khi khối lượng dự trữ bắt buộc tăng lên, các ngân hàng phải giữ lại nhiều tiền hơn, dẫn tới số tiền họ có thể cho vay sẽ ít hơn. Trong trường hợp đó, người dân sẽ ít đi vay hoặc vay được ít hơn, và tiêu dùng sẽ giảm xuống.
Cắt giảm nguồn cung tiền
Công cụ thứ ba đó chính là trực tiếp hoặc gián tiếp giảm nguồn cung tiền, bao gồm thu hồi các khoản nợ chính phủ và gia tăng lãi suất chi trả trên trái phiếu để thu hút thêm các nhà đầu tư.
Phương án thứ hai sẽ góp phần nâng tỷ giá hối đoái của đồng tiền nội địa do nhu cầu đối với đồng tiền này tăng lên (thông qua dòng chảy vốn nếu như lãi suất của quốc gia đó tăng cao hơn so với lãi suất của các quốc gia khác), qua đó gia tăng nhập khẩu và giảm xuất khẩu. Cả hai phương án trên đều giúp giảm lượng tiền lưu hành vì tiền sẽ đi từ các ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư vào ngân khố quốc gia, nơi chúng được kiểm soát tốt hơn.
Ví dụ rõ ràng nhất cho những biện pháp kể trên chính là Mỹ - quốc gia đang phải đối diện với tỷ lệ lạm phát ghi nhận ở mức cao nhất trong vòng 4 thập kỷ trở lại đây. Fed mới đây đã cho gia tăng lãi suất thêm 0,25% và đánh tiếng về nhiều đợt nâng lãi suất khác trong năm nay và năm sau. Cơ quan này cũng tiến hành đi tới việc chấm dứt chương trình thu mua tài sản, trị giá hàng trăm tỷ USD của mình nhằm kiểm soát lạm phát.
Nhìn lại quá khứ, chúng ta có thể thấy được những lần lạm phát tồi tệ nhất đều gắn liền với những cuộc chiến, cuộc xung đột - điều mà chúng ta có thể liên tưởng tới thời điểm hiện tại, khi Nga đẩy mạnh chiến dịch quân sự của mình trên lãnh thổ Ukraine.
Chỉ với một vài tuần lễ thôi, chúng ta đã được chứng kiến giá cả các loại hàng hóa gia tăng đột biến, trong đó có một số hàng hóa mang vai trò chiến lược đối với nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như toàn cầu như dầu mỏ và lương thực.
Chuỗi cung ứng toàn cầu đang trên đà hồi phục sau hơn một năm "gãy vụn" do đại dịch, nay lại phải đối diện với những thách thức mới trước những lệnh cấm vận mà các quốc gia sử dụng nhằm trừng phạt Nga. Cách thức chống dịch tại Trung Quốc với chiến lược Zero-Covid cũng đang nhăm nhe "bẻ gãy" chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hóa toàn cầu thêm một lần nữa.
Lạm phát đang tăng cao đột biến tại nhiều khu vực và quốc gia trên toàn thế giới, gây nên tâm lý bất ổn cho người dân. Liệu lần này lạm phát có thực sự được kiểm soát thông qua nỗ lực của các quốc gia, hay một lần nữa, người dân lại phải gồng mình hứng chịu những hệ quả khủng khiếp của nó?
Thời gian sẽ giúp chúng ta trả lời!
Nội dung: Hoàng Đại