“Lũ không chảy theo địa giới hành chính" và giải pháp căn cơ từ lưu vực
(Dân trí) - Nước rút, câu hỏi đặt ra là chúng ta phải làm gì để không lặp lại vòng luẩn quẩn đợi lũ rồi lại gượng dậy từ đống hoang tàn.
Nước vừa rút, nhiều khu dân cư ở Đắk Lắk, Khánh Hòa, Gia Lai, Lâm Đồng vẫn còn ngổn ngang bùn đất, những mảng tường còn in rõ vệt nước lũ dâng đến tận mái nhà.
Không ít người dân sống hàng chục năm ở Nam Trung Bộ đều chung một nhận xét: chưa bao giờ họ thấy mưa lũ kéo dài và ngập sâu như đợt này.
Các số liệu quan trắc cho thấy nhiều con sông lớn ở khu vực đồng loạt vượt mốc lịch sử, diện ngập trải rộng, thời gian nước rút chậm.
Điều đó cho thấy đây không chỉ là một trận lũ lớn, mà là một thiên tai cực đoan chỉ ra cấu trúc lũ lụt ở miền Trung đang thay đổi trong bối cảnh khí hậu biến đổi và mặt đệm bị tác động mạnh bởi hoạt động của con người.
Thiên tai đi qua, câu hỏi đặt ra là chúng ta phải làm gì để không lặp lại vòng luẩn quẩn đợi lũ rồi lại gượng dậy từ đống hoang tàn.

PGS.TS Nguyễn Tiền Giang, Trưởng khoa Khí tượng Thủy văn, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (Ảnh: Minh Nhật).
Trong cuộc trao đổi với phóng viên báo Dân trí, PGS.TS Nguyễn Tiền Giang, Trưởng khoa Khí tượng Thủy văn, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, muốn giảm thiểu thiệt hại từ những trận lũ cực đoan trong tương lai, cần triển khai đồng thời ba tầng đáp ứng.
Cùng với đó, chúng ta cần biến chính trận lũ này thành dữ liệu nền cho một chiến lược phòng chống thiên tai mang tính hệ thống theo lưu vực sông.
3 tầng đáp ứng phải làm sớm, làm ngay khi nước rút
Từ câu chuyện thiên tai hiếm thấy và mức độ tàn phá lớn ở các tỉnh miền Trung thời gian qua, theo ông đâu là những việc cần làm ngay, làm sớm để sẵn sàng ứng phó tốt hơn cho những lần tiếp theo?
- Nếu nói một cách ngắn gọn thì có 3 tầng việc, gối lên nhau, không thể làm cái sau mà quên cái trước.

Sau trận lũ lịch sử, “thủ phủ nho” Phan Rang tan hoang, nhiều vườn nho mất trắng. Người dân phải cắt bỏ hàng tấn nho mẫu đơn, cày lại đất để gượng dậy từ những giàn nho chết (Ảnh: Bảo Quyên).
Tầng thứ nhất là cứu người và phục hồi sau thiên tai. Dù ai cũng biết điều này, nhưng ở thực tế, khi lũ rút đi, xã hội rất dễ chuyển sự chú ý sang những câu chuyện khác. Trong khi đó, đối với người dân vùng lũ, hành trình khôi phục có thể kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm.
Ở giai đoạn này, chính quyền địa phương cần đẩy nhanh các hoạt động cứu trợ, hỗ trợ sinh kế, y tế, vệ sinh môi trường. Nhà cửa, trường học, trạm y tế, đường giao thông, hệ thống điện và nước sạch cần được ưu tiên khôi phục sớm để người dân có thể quay lại nhịp sống bình thường.
Song song với đó là giám sát dịch bệnh sau lũ, chủ động kiểm tra, xử lý nguồn nước, rác thải, xác động vật, bởi chỉ cần chủ quan trong vài tuần sau thiên tai, một đợt dịch bệnh bùng lên sẽ làm tổn thương chồng lên tổn thương.
Tầng thứ hai phải được kích hoạt ngay, dù vẫn còn đang phục hồi, đó là cảnh báo, giảm nhẹ cho các loại hình thiên tai tiếp theo. Sau một trận mưa lũ lớn, nguy cơ lũ quét và sạt lở đất thường trực ở các sườn dốc, taluy đường, khu vực khai thác đất đá, vùng có lớp phong hóa dày.


Ở Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng, Khánh Hòa, đất đá vốn đã bở, lại chịu tác động của lượng mưa rất lớn, khả năng trượt lở trong các đợt mưa sau đó là rất cao, kể cả khi mưa không còn lớn như đợt chính.
Do đó, các địa phương buộc phải làm song song hai việc: vừa khắc phục hậu quả, vừa rà soát lại bản đồ nguy cơ lũ quét, sạt lở đất trên thực địa. Nơi nào đã từng sạt lở, đã xuất hiện vết nứt, đã có dòng chảy bùn đá thì phải coi là điểm nóng rủi ro cho những trận mưa tới.
Ở đó cần có phương án sơ tán tạm thời, kịch bản rõ ràng, không đợi đến khi mưa xuống mới ứng phó.
Một điểm nữa là không được xem đợt lũ vừa rồi như một sự kiện “xong là xong”. Dự báo cho thấy mùa mưa bão năm nay vẫn chưa kết thúc. Trước mắt là áp thấp nhiệt đới mà rất nhiều khả năng trở thành cơn bão số 15 đang tiến vào biển Đông.
Miền Trung, Nam Trung Bộ, thậm chí cả Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long đều có khả năng chịu ảnh hưởng. Vì vậy, ngay trong giai đoạn này, chúng ta phải tính luôn đến các kịch bản bão lũ tiếp theo, chủ động chuẩn bị vật tư, lực lượng, nơi sơ tán, phương án đảm bảo an toàn cho hồ chứa, công trình thủy lợi, giao thông.
Tầng thứ ba là “bắt” chính trận lũ vừa qua trở thành một bài học sống động cho lần tới. Tức là phải đo đạc, ghi chép lại đầy đủ vết lũ, mực nước, diện ngập, những khu vực bị cô lập, tuyến đường bị chia cắt, công trình hư hại nặng.

Khả năng trượt lở trong các đợt mưa sau đó là rất cao, kể cả khi mưa không còn lớn như đợt chính (Ảnh: Vi Thảo).
Tất cả những dữ liệu đó nếu được lưu trữ, số hóa tốt sẽ trở thành nền cho việc điều chỉnh quy hoạch, xây dựng kịch bản ứng phó hiện đại hơn, sát thực tế hơn.
Nếu bỏ qua tầng thứ ba, cứ mỗi lần lũ đến rồi đi, chúng ta lại quay về điểm xuất phát, làm lại từ đầu.
Cần sự đầu tư tương xứng cho tuyến đầu chống thiên tai

Việt Nam là một trong những khu vực có chế độ khí hậu và thời tiết phức tạp nhất thế giới (Ảnh minh họa: P.V).
Với tình trạng thiên tai ngày càng phức tạp như hiện nay, theo ông ngành khí tượng thủy văn cần được đầu tư thêm và có thêm những giải pháp nào để có thể đóng góp tốt hơn trong công tác cảnh báo, dự phòng thiên tai nhất là về lũ lụt, sạt lở?
- Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, là một trong những khu vực có chế độ khí hậu và thời tiết phức tạp nhất thế giới. Trung bình mỗi năm chúng ta có khoảng 6 đến 7 cơn bão đổ bộ.
Trận đại hồng thủy lần này là hồi chuông cảnh báo chúng ta cần làm nhiều hơn nữa đối với ngành khí tượng thủy văn nói riêng và cả các ngành khác liên quan phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
Tôi nghĩ có ba trụ cột phải được quan tâm đầu tư ngay: con người, hạ tầng công nghệ và thể chế chính sách.
Vấn đề thứ nhất là xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho ngành. Về công tác trị thủy, phòng chống thiên tai chúng ta đã có lịch sử hàng nghìn năm.
Mỗi thời chúng ta có nguồn nhân lực khác nhau. Nhìn gần trong khoảng 100 năm trở lại đây, trong những năm 1960, chúng ta có đội ngũ các nhà khoa học được đào tạo rất bài bản từ Trung Quốc và Liên Xô (cũ). Lực lượng này đã làm nên công tác phòng chống thiên tai rất tốt.
Sau đó một thời gian, chúng ta có sự bổ sung thêm lực lượng cán bộ chuyên môn học từ các nước tiên tiến, cũng như đào tạo trong nước từ Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Bách khoa, Đại học Thủy Lợi…

Trạm khí tượng hơn 100 năm tuổi ở Hải Phòng (Ảnh: Trí Thành).
Tuy nhiên, khoảng 10-20 năm gần đây, chúng tôi nhận thấy có vấn đề sụt giảm về số lượng và chất lượng nhân sự rất lớn.
Nguyên nhân có cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng điểm dễ thấy là chế độ đãi ngộ chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc và quãng thời gian học tập dài.
Tại sao ngành khí tượng thủy văn ít thu hút được sinh viên khá, giỏi? Đây là nỗi trăn trở rất lớn của những người thầy như chúng tôi.
Để trở thành một chuyên gia có thể giải quyết các bài toán phức tạp của ngành, một bạn trẻ phải học 4-5 năm đại học, 2 năm cao học, 3-4 năm làm nghiên cứu sinh và cả chục năm theo ngành tích lũy kinh nghiệm.
Trong khi đó, thu nhập và phụ cấp trực bão, trực lũ còn rất khiêm tốn. Nhiều đồng nghiệp của tôi phải trực đêm liên tục trong mùa bão lũ, nhưng tiền trực một ca còn không đủ một bát phở với thời giá bây giờ.
Do đó, giải pháp đầu tiên phải là chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Không chỉ dừng ở khẩu hiệu mà phải cụ thể bằng lương, phụ cấp, cơ hội thăng tiến, điều kiện làm việc. Nếu chúng ta coi đây là lực lượng tuyến đầu trong bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân thì cách đối xử về chính sách cũng phải tương xứng.

Theo PGS Giang để có thể trở thành một chuyên gia giải quyết được bài toán khó trong ngành khí tượng thủy văn cần thời gian đào tạo rất dài (Ảnh: Minh Nhật).
Trụ cột thứ hai là hạ tầng và công nghệ. Hệ thống đài, trạm quan trắc, radar thời tiết, mạng lưới đo mưa, đo mực nước, cùng siêu máy tính dùng cho mô phỏng và dự báo đã được nhà nước đầu tư trong nhiều năm qua.
Nhưng nếu soi kỹ ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, đặc biệt là những nơi có nguy cơ cao về lũ quét, sạt lở, có thể thấy mạng lưới vẫn còn rất thưa thớt, không thể bắt kịp diễn biến quy mô nhỏ vài km2 hoặc vài chục km2.
Song song là nâng cấp năng lực tính toán. Các mô hình dự báo càng chi tiết thì càng đòi hỏi sức mạnh tính toán lớn. Nếu hệ thống máy tính không đủ mạnh, chúng ta buộc phải giảm độ phân giải, dẫn đến dự báo chỉ dừng ở phạm vi vùng rộng.
Trong bối cảnh thiên tai ngày càng mang tính cục bộ, một bản tin dự báo bao trùm cả khu vực rộng vài trăm km2 sẽ khó phục vụ tốt cho công tác sơ tán, ứng phó ở cấp xã, phường.
Trụ cột thứ ba, theo tôi, bao trùm lên hai trụ cột còn lại, là chính sách và thể chế. Chúng ta cần có những chính sách thực sự ưu đãi với ngành, coi lực lượng khí tượng thủy văn có vai trò bảo vệ sự sống, tài sản của nhân dân.
Lúc đấy tôi nghĩ sẽ có cơ sở hạ tầng tốt, có đội ngũ nhân lực tốt và cơ chế về đảm bảo tiền lương chính sách để đủ sống và phục vụ tốt cho ngành.
Lũ không chảy theo địa giới hành chính
Theo ông chúng ta cần một giải pháp phòng tránh thiên tai có tính hệ thống và toàn diện như thế nào để thích ứng với tình trạng thời tiết cực đoan đang ngày càng phức tạp?
- Tôi cho rằng phải thay đổi cách đặt câu hỏi. Thay vì chỉ hỏi “tỉnh này làm gì, tỉnh kia làm gì” thì phải hỏi “cả lưu vực phải làm gì cùng nhau”.
Lũ không chảy theo địa giới hành chính. Nước từ thượng nguồn Gia Lai, Đắk Lắk về đến Phú Yên, Khánh Hòa không dừng lại ở ranh giới tỉnh.
Nếu mỗi tỉnh tự làm quy hoạch, tự làm phương án lũ của mình mà không nhìn toàn bộ lưu vực, thì dễ dẫn đến tình trạng nơi này làm hồ chứa, kè sông, đường xá theo một logic, nơi khác lại xây đắp theo một logic khác, cuối cùng là “dồn rủi ro” từ chỗ này sang chỗ khác.

Phú Yên những ngày chìm trong nước lũ (Ảnh: Nam Anh).
Khi bàn về giải pháp để giảm thiểu thiệt hại do các loại hình thiên tai nói chung, lũ lụt nói riêng, tương tự như trận lũ từ ngày 16/11 đến 22/11 ở Nam Trung Bộ, việc đầu tiên là cần xem xét bài toán nan giải này là một bài toán hệ thống.
Vì giải pháp cho một khía cạnh này lại làm trầm trọng hơn một khía cạnh khác hoặc tạo ra một bài toán mới cần giải quyết.
Và do vậy cần một hướng tiếp cận tổng thể, mang tính hệ thống để định hướng giải quyết các bài toán lũ lụt, thiên tai, đa thiên tai đang gây ra mức độ thiệt hại về người và của ngày càng tăng.
Cụ thể, phải lồng ghép quy hoạch giảm nhẹ thiên tai vào các quy hoạch tích hợp phát triển kinh tế xã hội của vùng, liên vùng, lấy lưu vực sông làm đơn vị không gian cơ bản để điều phối, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và giảm nhẹ thiên tai một cách hiệu quả và bền vững.
Chúng ta đã tích hợp các quy hoạch phòng tránh thiên tai vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh trong thời gian qua. Tuy nhiên mức độ “tích hợp” chưa thật sự được rõ nét, và vẫn mang tính chất “địa phương”.

Thay vì chỉ hỏi “tỉnh này làm gì, tỉnh kia làm gì” thì phải hỏi “cả lưu vực phải làm gì cùng nhau”
Giảm thiểu thiệt hại do thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu cần sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các lĩnh vực từ giao thông, thủy lợi, xây dựng, du lịch, nông lâm nghiệp, công nghiệp, dự báo khí tượng thủy văn, bảo hiểm, y tế... và giữa các địa phương với nhau.
Trong hướng tiếp cận “Quản lý tích hợp rủi ro thiên tai” này, các bước cụ thể cần được thiết kế và triển khai bao gồm: phòng ngừa, giảm thiểu, chuẩn bị, ứng phó và phục hồi.
Trong các đề án quy hoạch này, cần rà soát, tính toán lại các đặc trưng mưa, lũ... thiết kế cho toàn bộ các công trình hạ tầng với số liệu khí tượng, thủy hải văn được cập nhật mới nhất và dài nhất, có xem xét đến các loại hình đa thiên tai, thiên tai phức hợp, cũng như biến động và biến đổi khí hậu.
Phải có chuẩn riêng cho các vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Miền Trung với đặc trưng dải đất hẹp, phía tây là núi, phía đông là biển, thời gian lũ lên rất nhanh, cần một bộ tiêu chuẩn riêng cho quy hoạch sử dụng đất, thiết kế công trình, bố trí dân cư, phát triển sản xuất.
Vùng có nguy cơ lũ quét cần quy định nghiêm ngặt về phá rừng, khai thác đất đá, mở đường. Vùng ven sông cần chuẩn về hành lang thoát lũ. Vùng ven biển cần chú ý đến mối quan hệ giữa triều cường, sóng lớn, nước biển dâng và thoát lũ.
Tăng cường năng lực cảnh báo và ứng phó ở cấp cơ sở là một vấn đề cần lưu tâm. Cảnh báo từ trung ương hay tỉnh chỉ thực sự có ý nghĩa khi được “dịch” thành hành động cụ thể ở cấp xã, phường, thôn, bản.
Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ cơ sở được tập huấn, có kịch bản chi tiết, có phương tiện liên lạc đến từng hộ dân, có hệ thống điểm sơ tán và lực lượng nòng cốt trong cộng đồng.
Cuối cùng, cần coi mỗi trận lũ là một “bài học kinh nghiệm” để cập nhật lại toàn bộ kịch bản thiên tai nhằm nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng tránh và giảm thiểu rủi ro. Việc này bao gồm phân tích các yếu tố như cường độ mưa, diễn biến lũ, mức độ thiệt hại, và hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu, chuẩn bị, ứng phó và phục hồi.
Từ đó, rút ra bài học để hoàn thiện, bổ sung các dữ liệu và phương pháp dự báo, cảnh báo, sơ tán, và quản lý rủi ro, giúp giảm thiểu thiệt hại trong tương lai. Nếu làm được như vậy, tôi tin rằng dù không thể chặn đứng thiên tai, chúng ta vẫn có thể giảm dần mức độ tổn thất sau mỗi lần lũ về. Chúng ta sẽ không còn phải “thấp thỏm đợi lũ”, mà là chủ động đón lũ.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
Theo dõi thêm các nội dung trong tuyến bài:
Bài học sau cơn "đại hồng thủy" trên sông Ba
Cú “đánh úp” của thiên tai lịch sử tại rốn lũ Hòa Thịnh
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên lý giải việc quy luật dòng chảy bị thay đổi
Nguyên thứ trưởng kỳ vọng dự báo chính xác lượng mưa trước 3 ngày như Nhật Bản
Trận lũ lịch sử xóa nhòa nhiều kinh nghiệm sinh tồn tại Nam Trung Bộ
“Lũ không chảy theo địa giới hành chính" và giải pháp căn cơ từ lưu vực

























