(Dân trí) - Chính sách miễn học phí là một phần của đường lối phổ thông giáo dục toàn dân được Đảng và Nhà nước chú trọng ngay từ khi mới thành lập.

Không phải “chiêu trò mị dân” nhất thời như xuyên tạc của thế lực thù địch, chính sách miễn học phí là một phần của đường lối phổ thông giáo dục toàn dân được Đảng và Nhà nước chú trọng ngay từ khi mới thành lập.
Suốt 95 năm qua, Đảng và Nhà nước ta trung thành, kiên định xây dựng một nền giáo dục dành cho tất cả mọi người, nền giáo dục thuộc về tất cả mọi tầng lớp Nhân dân.

Trong suốt hành trình gian khổ giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục và coi đó là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Người đã từng lên án mạnh mẽ chính sách ngu dân của chế độ thực dân Pháp với tư tưởng “Làm cho dân ngu để dễ trị" - một thứ kìm hãm sự tiến bộ và nô dịch tinh thần người dân Việt.
Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản được viết vào tháng 2/1930, trong đó có Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ đưa ra tư tưởng, khẩu hiệu “thực hiện giáo dục toàn dân", “ai cũng được học hành". Tinh thần ấy, càng được thể hiện rõ nét khi Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Một ngày sau đó, trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Người yêu cầu hai việc quan trọng phải làm ngay, 1 là diệt “giặc đói”, 2 là diệt “giặc dốt”.
Trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Ngay từ thời điểm lập nước non trẻ ấy, Đảng và Bác đã xác định giáo dục là nhiệm vụ vô cùng cấp bách, bởi theo Bác “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Từ đây, chiến dịch xoá nạn mù chữ ra đời.
Phương cách diệt “giặc dốt” được Bộ trưởng Bộ Nội vụ khi ấy là đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa ra: “Nền giáo dục mới đang ở thời kỳ tổ chức. Chắc chắn là bậc sơ học sẽ cưỡng bách. Trong thời hạn rất ngắn sẽ ban hành lệnh bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống nạn mù chữ đến triệt để. Vấn đề vô cùng quan trọng ấy, chúng ta chẳng chờ đến lúc sự sinh hoạt trở nên bình thường mới giải quyết. Ngay trong hoàn cảnh eo hẹp này, chúng ta cũng quả quyết tiến hành”.
Liên tiếp các ngày sau đó, Chính phủ ban hành các sắc lệnh quan trọng về giáo dục quốc dân nhằm đặt bình dân học vụ trên toàn cõi Việt Nam. Riêng trong sắc lệnh số 20 ghi rõ: Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bách, việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người.
Nhờ hiệu triệu toàn dân đi học và học miễn phí, chỉ sau 1 năm, đã có 2,5 triệu người Việt Nam biết chữ. Phong trào bình dân học vụ duy trì trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, trong 9 năm kháng chiến (1946-1954), những lớp bổ túc văn hóa đã đưa 8 triệu người dân thoát nạn mù chữ.
Năm 1959, toàn bộ vùng Đồng bằng và Trung du Bắc bộ hoàn thành nhiệm vụ xóa mù chữ cho người dân độ tuổi 12-50.
Tới năm 1965, các vùng thấp thuộc miền núi phía Bắc đã xóa xong nạn mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong khi đó, thời điểm năm 1975, khi bộ đội tiến vào Sài Gòn giải phóng miền Nam, 30% người dân sống dưới chính quyền Việt Nam Cộng hoà mù chữ, trong đó có khoảng 40.000 trẻ em thất học.
Chỉ thị 221 ngày 17/6/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh, việc xoá mù chữ cho người dân miền Nam là nhiệm vụ cấp thiết số một. Nhờ vậy, 2 năm sau - 1978 - 21 tỉnh thành miền Nam cơ bản xóa mù chữ.
Đảng và Chính phủ đã làm gì để có được kết quả thắng lợi ấy?
Nếu chỉ áp dụng phương pháp xóa mù theo các lớp học ban ngày truyền thống, mỗi năm thành phố chỉ có thể giúp tối đa 9.000 trẻ em biết đọc, biết viết. Với 40.000 trẻ, thời gian cần thiết xoá mù chữ lên đến gần 5 năm.
Trong bối cảnh đó, Sở GD&ĐT TPHCM đã đưa ra một quyết định táo bạo và đầy tính nhân văn là mở các lớp học đêm, kéo dài từ 19h đến tận khuya. Phương châm được đặt ra là "người dân thuận giờ nào học giờ đó".
Thế là ban ngày làm việc ở Sở, ban đêm các cán bộ của Sở GD&ĐT lại tỏa đi khắp các ngả đường, chia thành các đoàn công tác, len lỏi vào từng ngõ xóm. Ở đâu có người muốn học, ở đó có lớp học được hình thành, dù là tại nhà dân, nhà văn hóa, hay hội trường của khu phố.

Một giáo viên đi thuyết phục xây dựng trường học cho các cháu tại huyện Củ Chi, TPHCM sau ngày Thống nhất đất nước 30/04/1975 (Ảnh chụp lại tư liệu).
Thầy Phan Văn Sâm, năm nay đã bước sang tuổi 80, người từng gắn bó với bục giảng môn ngữ văn tại Trường THPT Nguyễn An Ninh (quận 10 cũ), vẫn còn nhớ như in giai đoạn đầy khó khăn nhưng cũng tràn đầy nhiệt huyết sau năm 1975.
Thầy kể rằng, thời điểm đó, sách vở được in ấn với số lượng lớn, hầu hết các trường học đều xây dựng được thư viện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc dạy và học.
Thậm chí, có thời điểm ngành giáo dục còn chủ trương cho học sinh mượn sách giáo khoa để học tập, san sẻ gánh nặng kinh tế cho những gia đình khó khăn, giúp các em có thêm cơ hội đến trường.
Lời hiệu triệu toàn dân đi học từ năm 1945 tới 1975, đi qua bao biến động của lịch sử, vẫn nguyên vẹn tinh thần phục vụ của Đảng và Nhà nước ta.
Đảng không chờ đến lúc đất nước hoà bình độc lập mới dạy chữ cho dân. Đảng cũng không chờ đến đất nước no đủ, thoát nghèo mới dạy chữ cho dân. Và giờ đây, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ không chờ đến khi đất nước trở thành nước phát triển mới miễn học phí cho dân.

Lớp học tình thương buổi tối được tổ chức tại Trường Tiểu học Hồng Đức, TPHCM vào năm 2022 (Ảnh tư liệu: Huyên Nguyễn).
"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" - đó là lời Bác Hồ đã trả lời các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946, sau thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và Bác chính thức trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngay từ thời điểm ấy, nền giáo dục mà Đảng và Bác hướng đến là nền giáo dục quốc dân - nền giáo dục dành cho tất cả mọi người, nền giáo dục thuộc về tất cả mọi tầng lớp nhân dân.


Điều 61 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ghi rõ "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".
Điều này được cụ thể hoá bằng chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Nhà nước ta - từ khi còn chiến tranh giành độc lập (1945) cho đến ngày nay - là dành 20% ngân sách cho giáo dục. Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển cũng chỉ dành 5-10%.
Tại khu vực ASEAN, nhiều nước có thu nhập bình quân trên đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam, nhưng mức chi cho giáo dục chỉ tương đương, thậm chí thấp hơn nước ta.
Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng qua các kỳ đại hội đều nhấn mạnh vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Đường lối phổ thông giáo dục toàn dân không chỉ dừng lại ở việc xoá mù chữ mà còn mở rộng đến việc đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận các cấp học, nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức. Đó là lý do chính sách phổ cập giáo dục của nước ta có sự khác biệt hoàn toàn.

Việt Nam hiện là nước duy nhất trong ASEAN đặt mục tiêu phổ cập mầm non 5 tuổi. Dù không phải là nước giàu nhất trong ASEAN nhưng Việt Nam đặt ra mục tiêu phổ cập mầm non trong khi các nước có GDP cao hơn chỉ phổ cập từ tiểu học.
Đặc biệt, Bộ GD&ĐT cũng đã chuẩn bị phương án phổ cập mầm non cho trẻ 3-4 tuổi. Chủ trương miễn học phí của Bộ Chính trị sẽ mở “cao tốc” cho mục tiêu phổ cập này.
Gắn bó gần nửa thế kỷ với sự nghiệp trồng người, những giáo viên "lưu dung" - nhà giáo của chế độ cũ được tin tưởng sử dụng lại trong bộ máy giáo dục mới - cảm nhận sâu sắc sự phát triển của giáo dục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thầy giáo Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD&ĐT TPHCM kể, sau ngày 30/4/1975, đó là một thay đổi mang tính cách mạng đối với nền giáo dục hướng tới phổ cập. Giáo dục dưới đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được chú trọng không chỉ ở trung tâm và còn các trường học ở vùng ngoại thành, vùng sâu, vùng xa.
Những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, mọi thứ còn khó khăn trăm bề: cơ sở vật chất thiếu thốn trầm trọng, nhiều trường ngoại thành ở dạng cấp 4, thậm chí có trường được dựng lên bằng tranh tre, nứa, lá, bàn ghế học sinh vừa thiếu, vừa cũ, lại không đúng quy chuẩn sư phạm. Đời sống của số đông giáo viên có nhiều khó khăn. Mức lương khi đó của giáo viên chỉ khoảng 40-50 đồng/người/tháng cùng với 13kg gạo độn thêm mì sợi, bột mì, bo bo, khoai củ.
Vậy nhưng, nhờ khí thế cách mạng, bằng niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, các thầy cô vẫn một lòng nhiệt huyết với sự nghiệp giáo dục, hết lòng vì học sinh.
Cũng học tập dưới chế độ cũ, rồi sau đó, giảng dạy sau ngày thống nhất, thầy giáo Lê Ngọc Điệp, nguyên Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học, Sở GD&ĐT TPHCM, nhìn nhận đặc điểm chung của hai nền giáo dục trước và sau ngày giải phóng đó là dạy học trò yêu quê hương, yêu Tổ quốc, những đạo đức làm người như lễ phép, kính trọng người lớn, hòa nhã với bạn, ngoan hiền, yêu lao động…
Song, nếu nền giáo dục của chế độ cũ tập trung vào đội ngũ tinh hoa thì Đảng và Nhà nước ta phấn đấu vì một nền giáo dục cho toàn dân.

Năm 2001, được xem là dấu mốc quan trọng khi nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1. Đến nay, chúng ta tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập THCS, hướng tới các mức độ cao hơn.
Tính đến năm 2025, tất cả tỉnh, thành trên cả nước đều duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1. Một số địa phương còn đạt mức độ 2 và 3 - các mức cao hơn về chất lượng và độ bao phủ. Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi cấp THCS đạt 97%, tỷ lệ hoàn thành cấp THCS đúng độ tuổi đạt 99%.
Chưa dừng lại ở đó, ngày 6/3/2025, Phó Thủ tướng Lê Thành Long ký Quyết định số 525/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 29 của Bộ Chính trị về công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông đến năm 2030.
Kế hoạch nhằm bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội công bằng, bình đẳng về việc tiếp cận giáo dục trong hệ thống giáo dục mở, đa dạng, linh hoạt, liên thông, hiện đại.
Tất cả công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện. Hoàn thành việc xóa mù chữ cơ bản và tiến tới xóa mù chữ chức năng cho người lớn, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, phụ nữ và người lao động tại các khu vực khó khăn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự cạnh tranh toàn cầu.
Những con số, chủ trương này là minh chứng cho mục tiêu của Đảng và Bác Hồ: “Đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".

Nếu như trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, giữa rừng sâu núi thẳm vẫn vang vọng tiếng ê a từ những lớp học bình dân học vụ, thì nay, tinh thần hiếu học ấy tiếp tục được lan toả mạnh mẽ trong kỷ nguyên số với phong trào “Bình dân học vụ số”.
Trong buổi gặp mặt đại diện nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhân ngày Nhà giáo Việt Nam năm ngoái, lấy cảm hứng từ phong trào "Bình dân học vụ" ngày lập nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát động phong trào "Bình dân học vụ số".
Phong trào được đẩy mạnh trong bối cảnh tỷ lệ lớn người dân, kể cả cán bộ trong cơ quan nhà nước chưa nắm vững về chuyển đổi số, trong khi đó, Bộ Chính trị đã bàn và quyết định sẽ ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia.
Sau gần 100 năm, phong trào bình dân học vụ đã mang sứ mệnh mới: Phổ cập tri thức công nghệ, kỹ năng số cho toàn dân, giúp mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng và làm chủ công nghệ một cách hiệu quả.

Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh, trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là tương lai dân tộc; luôn luôn đặc biệt quan tâm chăm lo, có nhiều chủ trương, chính sách đầu tư cho giáo dục, xác định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và ưu tiên, đi trước so với các lĩnh vực khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, giáo dục và đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những kỳ tích phát triển của dân tộc. Có được thành tích, kết quả đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn dân, là sự đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng, nỗ lực cố gắng vượt mọi khó khăn của toàn ngành giáo dục, nhất là đội ngũ các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục - lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ “trồng người” đầy vẻ vang.
Từ “xoá nạn mù chữ" đến “nâng cao dân trí", từ “phổ cập giáo dục" đến “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao", từ “bình dân học vụ” đến “bình dân học vụ số”, mục tiêu thực hiện giáo dục toàn dân luôn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gần một thế kỷ trôi qua nhưng đường lối “thực hiện giáo dục toàn dân" trong Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2/1930 đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, chúng ta vẫn kiên định theo đuổi vững chắc như bàn thạch.
Chính sách miễn học phí hôm nay là một minh chứng rõ nét nhất cho mục tiêu đó. Đó là sự tiếp nối liền mạch truyền thống tốt đẹp, chủ trương đúng đắn của nước ta, không hề mang động cơ vụ lợi hay chiêu trò nào như lời của các thế lực thù địch bóp méo.
Sự nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng và hành động, dù bối cảnh thời đại có nhiều thay đổi, đã minh chứng cho tính khoa học, cách mạng và sức sống trường tồn trong hệ tư tưởng của Đảng, trở thành nền tảng vững chắc cho mọi thắng lợi của Việt Nam.
Những luận điệu xuyên tạc dù có tinh vi đến đâu cũng không thể che lấp được đường lối đúng đắn, nhất quán chính sách của quốc gia dành cho giáo dục, vì sự nghiệp trồng người. Vạch trần những luận điệu sai trái không chỉ là nhiệm vụ của báo chí mà là trách nhiệm của mỗi người dân. Hãy lan toả thông tin chính thống, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc và cùng nhau xây dựng môi trường thông tin lành mạnh, để những chính sách tốt đẹp như miễn giảm học phí lan toả tinh thần nhân văn vào cuộc sống.
Kỳ 1: Miễn học phí: Mục tiêu nhân văn và những luận điệu sai trái cần bác bỏ

























