Học trò sống sót sau trận bom B52 kể ký ức đau thương về GS Đặng Văn Ngữ
(Dân trí) - Hơn 50 năm trôi qua, nữ bác sĩ sống sót sau trận bom B52 vẫn đau đớn khi nhớ về hình ảnh cuối cùng của Giáo sư Đặng Văn Ngữ.
Giáo sư (GS), Bác sĩ (BS) Đặng Văn Ngữ là một trong những nhà khoa học hàng đầu của nền y học cách mạng Việt Nam. Với nguồn tri thức sâu rộng, tinh thần yêu nước sâu sắc, con đường sự nghiệp của giáo sư không chỉ làm giới khoa học khâm phục, mà còn trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ học trò.
Ở tuổi 85, BS Trần Thị Lịch - một trong những học trò may mắn trực tiếp làm việc cùng GS Đặng Văn Ngữ - vẫn không quên giọng nói nhẹ nhàng, tác phong giản dị nhưng quyết đoán, tinh thần làm việc cống hiến của người thầy đáng kính.

GS Đặng Văn Ngữ làm việc tại phòng thí nghiệm ở Trường Y khoa Đông Dương (Ảnh: Tư liệu).
Trong hồi ký Ngọn đèn giữa đại ngàn Trường Sơn vừa hoàn thành hồi tháng 8, nữ bác sĩ ghi lại những ngày tháng ở Vĩnh Linh và chiến trường Trị Thiên - Huế (1966-1967), nơi GS Đặng Văn Ngữ sống, làm việc và hy sinh.
Ở đó, bà trao gửi nỗi tiếc thương, lòng biết ơn và cả sự day dứt vì những điều còn dang dở trong sự nghiệp của một nhà khoa học tận tụy, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và lý tưởng phụng sự Tổ quốc.
Vị giáo sư xắn quần để muỗi đốt giữa rừng Trường Sơn
Trò chuyện với phóng viên Dân trí, BS Lịch chia sẻ, hành trình theo chân GS Đặng Văn Ngữ - Viện trưởng Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương - cùng các cán bộ của viện vào chiến trường miền Nam để nghiên cứu điều chế loại vaccine miễn dịch sốt rét và chữa trị tại chỗ cho bộ đội, là những ngày đáng nhớ nhất cuộc đời bà.
Năm đó, Trần Thị Lịch là nữ cán bộ côn trùng học của viện, tràn đầy niềm tin và tinh thần cống hiến nhờ sự chỉ dạy của GS Đặng Văn Ngữ.
Thời điểm 1965-1967, bệnh sốt rét trở thành nỗi ám ảnh tại chiến trường miền Nam, đặc biệt là vùng Trường Sơn. Bộ đội hành quân, ngủ võng, ngủ hầm, ở lán tạm trong điều kiện địa hình rừng núi nhiệt đới ẩm thấp, đối mặt với bầy muỗi vây quanh. Dịch bệnh không chỉ cướp đi sinh mạng bộ đội, mà còn triệt tiêu tinh thần chiến đấu, làm tiêu hao lực lượng chiến sĩ một cách âm thầm mà đau đớn.
Trước thực trạng ấy, GS Đặng Văn Ngữ, với tấm lòng của một người thầy thuốc và nhà khoa học yêu nước, không thể ngồi yên. Ông thành lập đoàn nghiên cứu vaccine sốt rét thoa trùng - một sứ mệnh mà sau này BS Lịch mới thấm thía hết tầm quan trọng và ý nghĩa của nó.

GS Đặng Văn Ngữ là nhà khoa học lỗi lạc của Việt Nam (Ảnh: Tư liệu).
“Đầu năm 1966, tôi bất ngờ được thầy đích thân điều về đoàn nghiên cứu vaccine sốt rét, chuẩn bị đi thực địa tại Vĩnh Linh (Quảng Trị cũ - PV). Khi đó, tôi đã có hai con nhỏ. Nhưng trước sự tin tưởng thầy trao gửi, tôi không đắn đo”, bác sĩ Lịch kể lại.
Khi ấy, đoàn bác sĩ chẳng ai ngờ rằng, họ sắp bước vào một hành trình không chỉ khốc liệt về thể xác, mà còn đau đớn về tinh thần.
Trên chiếc UAZ được ngụy trang bằng cành, lá cây, đoàn vượt hàng trăm cây số suốt 7 ngày đêm đến chiến trường khốc liệt. Ban ngày, họ tìm nơi ẩn nấp, ban đêm mới dám lặng lẽ di chuyển để tránh bị máy bay địch phát hiện.
Vào chiến trường, mỗi đêm trong lán rừng, tiếng chim vang vang đều đều “bắt cô trói cột” nghe khoắc khoải, buồn đến lạ. Bác sĩ Lịch thấm thía nỗi nhớ con, nhớ nhà. Hiểu tâm tư học trò, GS Đặng Văn Ngữ động viên, nói đùa tiếng chim đó là “khó khăn, khắc phục”.
Những ngày đầu tiếp xúc trực tiếp với GS Đặng Văn Ngữ, bác sĩ Lịch ngày ấy không tránh khỏi hồi hộp và e dè. Thế nhưng càng làm việc, bà lại càng cảm nhận rõ nhân cách lớn, tấm lòng bao dung của người thầy phía sau vẻ ngoài nghiêm khắc.
Là nhà khoa học lớn nhưng bác sĩ Đặng Văn Ngữ không nề hà công việc của một nhân viên nghiên cứu bình thường, sẵn sàng xắn quần làm mồi cho muỗi đốt giữa núi rừng Vĩnh Linh cùng các học trò. Hình ảnh người thầy với vóc dáng mảnh khảnh, đôi chân để trần làm mồi bắt muỗi giữa rừng sâu năm xưa đã khắc ghi vào ký ức vị bác sĩ 85 tuổi và những cán bộ đoàn nghiên cứu.
Kiến thức, tác phong và nhân cách của người thầy trở thành động lực cho bác sĩ Lịch và các cộng sự cố gắng tìm biện pháp hữu hiệu phù hợp nhất phòng chống sốt rét.
Mỗi người một nhiệm vụ, bác sĩ Lịch tham gia bắt muỗi, mổ muỗi tìm thoa trùng. Từ những ngày học hỏi thầy cho đến khi trở thành người đồng hành cùng thầy, bà nhớ mãi khoảnh khắc vỡ òa cảm xúc lần đầu tiên thấy thoa trùng trong tuyến nước bọt muỗi dưới kính hiển vi.
"Cảm xúc tôi vỡ oà, vừa hồi hộp, xúc động, vừa tự hào khi thầy xác nhận đó đúng là thoa trùng và khen tôi rất kiên trì, tập trung. Khoảnh khắc ấy trở thành dấu ấn không thể quên trong cuộc đời làm khoa học của tôi, như một bước chuyển từ người học việc sang người đồng hành thật sự trong hành trình nghiên cứu khoa học đầy lý tưởng mà giáo sư đã khởi xướng", bác sĩ Lịch nhớ lại.

GS Đặng Văn Ngữ (giữa) trong một lần thuyết trình với Bác Hồ về môn Ký sinh trùng (Ảnh: Tư liệu).
Sau 3 tháng nghiên cứu chế tạo vaccine sốt rét thử nghiệm tại Vĩnh Linh với những tín hiệu tích cực, GS Đặng Văn Ngữ có niềm tin lớn rằng vaccine điều chế từ tuyến nước bọt muỗi có thoa trùng tự nhiên sẽ có khả năng phòng được sốt rét, bảo vệ sinh mạng cho bộ đội đang chiến đấu tại núi rừng Trường Sơn.
Và cũng chính từ niềm tin ấy, GS Đặng Văn Ngữ bắt đầu một hành trình mới. Tháng 9/1966, trở lại Hà Nội, ông gửi đề nghị đến Bộ Y tế và Thủ tướng Chính phủ, quyết tâm tiếp tục sản xuất được vaccine đưa đến chiến trường khu Trị Thiên - Huế, nơi tình hình dịch bệnh và điều kiện chiến đấu đang vô cùng khốc liệt.
Dù nhiều lần bị từ chối vì lý do an toàn, giáo sư vẫn kiên trì thuyết phục. Sau cùng, nguyện vọng của ông đã được chấp thuận - mở đường cho chuyến đi vào chiến trường Trị Thiên - Huế đầu năm 1967. Một chuyến đi đặc biệt, mang theo khát vọng khoa học cháy bỏng, lòng yêu nước nồng nàn và cả những mất mát, đau thương không gì bù đắp được sau này.
“Vừa mới đây thôi, mà giờ... mất hết rồi!”
Trước khi vào chiến trường Trị Thiên - Huế, đoàn công tác gồm GS Đặng Văn Ngữ và 12 cán bộ của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương trải qua đợt tập huấn tại Hòa Bình (cũ). Sau này, con trai GS Ngữ - đạo diễn, NSND Đặng Nhật Minh - kể lại, trong bức thư cha gửi từ Hòa Bình về gia đình có đoạn: “Thời gian bồi dưỡng ở chỗ tập trung ba luôn luôn mạnh khoẻ. Mang ba lô, leo dốc được như mọi người…”.
Ở tuổi 57, ông không để tuổi tác, sức khỏe làm chùn bước chân. Mỗi ngày, ông tập mang vác ba lô 30kg, hành quân vượt dốc núi, học bắn súng, tập bò, học cách tổ chức sinh hoạt, sơ cứu, giữ gìn thiết bị như mọi người. Nghị lực và sự dấn thân của ông khiến gia đình và các học trò vô cùng xúc động.

GS Đặng Văn Ngữ và con trai Đặng Nhật Minh (Ảnh: Tư liệu).
Trước khi lên đường, GS Đặng Văn Ngữ động viên các cán bộ để ai cũng yên tâm làm nhiệm vụ. BS Lịch khi ấy băn khoăn, trăn trở vì có mẹ già, con nhỏ, nhưng đã được thầy nhắn nhủ, trao gửi niềm tin: "Kỳ này cô vào chiến trường tiếp tục công việc mổ muỗi làm vaccine. Công việc cần cô. Tôi sẽ cho người đón 2 con của cô đang sơ tán ở Ninh Bình lên để cô yên tâm đi".
Lời nói ấy khiến BS Lịch không còn thấy sợ hãi trước gian khổ, chỉ còn thấy vinh dự được đồng hành cùng người thầy bác ái, nghị lực.
Một ngày đầu năm 1967, GS Đặng Văn Ngữ cùng đoàn nghiên cứu lên đường đến khu Trị Thiên - Huế. Ngước lên bầu trời trong xanh, những cán bộ y tế háo hức nghĩ về hành trình phía trước, tràn đầy hy vọng về sứ mệnh đặc biệt: Nghiên cứu, sản xuất và triển khai tiêm chủng vaccine sốt rét tại chỗ cho bộ đội.
Hai tháng ròng rã, qua những cánh rừng rậm rạp, đèo cao, dốc thẳm, sông suối gầm gào, với đủ hiểm nguy rình rập như vắt, muỗi, rắn độc, mưa rừng, bom đạn bất ngờ và cả những đợt càn quét của địch, đoàn cũng tới chiến khu Trị Thiên - Huế.
Hằng ngày, đoàn nghiên cứu sống và làm việc trong điều kiện kham khổ, ngủ võng trong hầm, ăn cơm với muối rang, rau rừng. Tiếng bom, tiếng đạn trở thành âm thanh quen thuộc mỗi ngày.

Bức thư cuối cùng GS Đặng Văn Ngữ gửi con trai được viết ngày 27/2/1967 (Ảnh: Tư liệu).
Ngày 1/4/1967, rừng Trường Sơn tỏa hơi nóng đầu mùa khô. Quanh căn lán nhỏ, GS Đặng Văn Ngữ cùng đồng đội miệt mài xây dựng trạm nghiên cứu. Hết gạo ăn, đoàn chia làm 3 nhóm. Một nhóm gồm 7 người đi vùng giáp ranh lấy gạo. Nhóm gồm 2 người đi Quảng Trị nhận dụng cụ chuyên môn. Nhóm còn lại gồm GS Ngữ, BS Lịch và 3 kỹ thuật viên là cô Oánh, cô Thành và cô Tuyên ở lại tiếp tục đào hầm, xúc đất, chẻ lạt... để hoàn thiện trạm.
13h45, chiến sĩ bộ đội thông tin Đới Văn Như chạy sang, mồ hôi nhễ nhại, thông báo: "B52 14h30 oanh tạc. Chưa rõ mục tiêu". Theo quy định, khi có tin báo, mọi người phải xuống hầm trú ẩn trước 15 phút và có thể rời hầm 15 phút sau loạt bom cuối cùng.
Tin báo vừa dứt, GS Đặng Văn Ngữ nhẹ nhàng căn dặn: "Cô Lịch về trước chuẩn bị cơm nước kẻo phải ngồi hầm lâu, không nấu được cơm. Nhớ xuống hầm đúng 14h15 nhé. Thầy và các cô 14h sẽ về".
Giữa giây phút hiểm nguy, vị giáo sư vẫn nghĩ đến bữa cơm cho cả nhóm, vẫn nấn ná ở lại thêm vài phút tiếp tục dựng trạm nghiên cứu. Không ai lường trước được sự thật đau thương, rằng chỉ vài phút sau, nơi này sẽ hóa thành một hố bom khổng lồ và số phận của một nhà khoa học tài hoa vĩnh viễn khép lại.

Bộ đội qua cầu khỉ trên đường Trường Sơn (Ảnh: Tư liệu).
Nghe lời thầy, BS Lịch men theo bờ suối, tranh thủ hái nắm rau tai voi, vo gạo, rửa rau. Bếp được bố trí bên lán nhỏ có hầm, cách nơi GS Ngữ đào trạm nghiên cứu chỉ khoảng 150m. Đi được nửa quãng đường tới bếp, BS Lịch nghe 2 tiếng nổ chát chúa. Bà giật mình khựng lại vì đây không phải là bom tọa độ từ xa.
Hàng loạt tiếng nổ nhỏ lục bục dội vào tim gan, nữ bác sĩ hiểu rằng máy bay đang rải thảm rất gần. Hơi bom phụt từng luồng mạnh, mặt đất như bị xới tung. Lá cuốn thành từng cuộn xoáy. Những nhánh cây bị mảnh bom chặt ngang, rơi xuống trơ trụi.
BS Lịch chỉ biết chạy thục mạng về bếp, tim đập liên hồi. Khi bà nhảy vào hầm nhỏ ở lán bếp thì loạt bom thứ nhất cũng vừa dứt. Bà ngồi thụp xuống, hai tay ôm đầu, đinh ninh rằng loạt bom thứ hai sẽ dội xuống mình. BS Lịch hiểu điều khủng khiếp đang xảy ra: Máy bay đã ném sớm hơn báo động!
Đúng lúc BS Lịch đang hoảng loạn, trên nóc hầm vang lên tiếng đổ sầm, kéo theo tiếng thở gấp gáp. Cô Oánh nằm trên miệng hầm, tóc cháy xoăn tít, mặt lấm lem đất, quần áo rách bươm. BS Lịch kiểm tra thấy cô Oánh không bị thương nặng, hỏi dồn: "Thầy Ngữ đâu? Thành đâu? Tuyên đâu?". Cô Oánh thều thào nói "Em… không biết", rồi ngất lịm.
Lúc đó, nữ bác sĩ cố giữ bình tĩnh. Sau loạt bom cuối khoảng 15 phút, BS Lịch chui ra khỏi hầm, chạy thẳng sang núi bên kia, thầm cầu mong một điều duy nhất: Thầy và mọi người kịp vào hầm giữa lúc bom trút xuống.
Thế nhưng, đến nơi, không còn là cảnh tượng khu rừng quen thuộc. BS Lịch bàng hoàng chứng kiến cây cối đổ gãy ngổn ngang, đất đá bị đào xới tung tóe. Trên sườn núi, thi thể cô Thành, cô Tuyên bị hất ngược lên cao, quần áo rách nát, thân người đầy tro bụi.
Quay sang trái, nữ bác sĩ chết lặng. Một phần cẳng chân, một nắm tóc còn mắc lại trên cành cây gãy... Thi thể GS Đặng Văn Ngữ và chiến sĩ bộ đội thông tin Đới Văn Như hầu như không còn nguyên vẹn, lẫn vào nhau và vào đất cát, không còn phân biệt được của ai với ai.
"Tôi hốt hoảng, sợ hãi, chân tay run rẩy, chết lặng người đi, đầu óc quay cuồng, ngã quỵ xuống, nước mắt trào ra không ngừng. Giữa khoảng rừng tang thương ấy, chỉ có mình tôi, bé nhỏ, lạc lõng, đơn côi, tủi thân đến cùng cực. Tôi đờ đẫn, không biết phải làm gì, cũng không nghĩ được gì, chỉ vừa nức nở, vừa vô tri sờ những đám đất quanh mình.
Chỉ mới ít phút trước, thầy còn dặn dò tôi xuống hầm đúng giờ. Vậy mà giờ đây, thi thể thầy và đồng đội đã không còn nguyên vẹn, không còn có thể nói với tôi nên làm gì. Tất cả đã dừng lại, đã nằm lại mãi mãi nơi này", BS Trần Thị Lịch nhớ lại giây phút tang thương.
Khi các anh bộ đội tiểu đoàn thông tin chạy tới, bà ôm chầm lấy họ mà khóc òa lên: "Vừa mới đây thôi, mà giờ… mất hết rồi!".
Máy bay Mỹ hôm ấy đến sớm hơn 30 phút. Trận bom B52 cướp đi sinh mạng của GS Đặng Văn Ngữ, hai kỹ thuật viên cùng một chiến sĩ bộ đội thông tin. Một nhà khoa học lỗi lạc, giàu lòng nhân ái đã cống hiến hết mình cho đất nước, để rồi hy sinh vì Tổ quốc trong một trận bom B52, như người lính ngã xuống trên mảnh đất hình chữ S.
Ngọn đèn không lụi tàn theo năm tháng
Những năm sau này, ký ức kinh hoàng về ngày 1/4/1967 vẫn còn ám ảnh BS Trần Thị Lịch. Suốt 58 năm trôi qua, bà vẫn khắc khoải ước nguyện, giá như trận bom oan nghiệt đừng đến sớm như vậy, thì GS Đặng Văn Ngữ và những đồng đội sẽ được tiếp tục hành trình, tiếp tục những lý tưởng dang dở. Đây là nỗi mất mát không thể nói thành lời, hằn sâu trong trái tim bà Lịch và nhiều cán bộ Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương.
"Tối đó, tôi khóc suốt đêm, không sao chợp mắt được. Cứ nghĩ đến lúc thầy nằm xuống, tôi lại nghĩ đến cha mình, người đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp", BS Lịch kể lại.

Tấm biển nhôm chôn cùng thi hài cố GS Đặng Văn Ngữ (Ảnh: Tư liệu).
Khi biết GS Ngữ hy sinh, những người còn lại trong đoàn ôm nhau khóc nghẹn. Đoàn nghiên cứu vốn thân thiết như gia đình, từ nay mất người thầy, người cha. Biết bao chiến sĩ bộ đội đang sốt rét vật vã lại thêm hẫng hụt vì sự tổn thất to lớn này.
Nhưng người đã ra đi không thể trở lại. Nén nỗi đau, đoàn cố gắng gượng dậy tiếp tục công việc, ngày đêm bắt và mổ muỗi tìm thoa trùng, đóng từng lọ vaccine, mong mỏi thực hiện ước nguyện dang dở của viện trưởng.
Thế nhưng, chiến trường mỗi lúc một khốc liệt hơn, máy bay xuất hiện ngày càng nhiều, những trận oanh tạc của địch khiến đoàn liên tục di chuyển địa điểm đóng quân. Trong hoàn cảnh ấy, mọi hoạt động nghiên cứu, sản xuất vaccine buộc phải tạm gác lại.
Cuối năm 1967, đoàn nhận lệnh trở về miền Bắc. Họ chia thành từng nhóm nhỏ, lần theo các trạm giao liên, băng rừng lội suối, vượt dãy núi Trường Sơn, suốt hơn hai tháng mới về đến Hà Nội, mang theo trong tim nỗi mất mát không thể nói thành lời.
Vì điều kiện chiến trường, GS Đặng Văn Ngữ và những cán bộ hy sinh trong trận Mỹ thả bom B52 được chôn cất trong lặng lẽ tại một bãi đất cạn bên sườn núi sâu thẳm ở rừng. Không bia mộ, không ai ở lại trông nom, chỉ có bốn mảnh nhôm mang tên và ngày hy sinh của từng người, được chôn dưới từng ngôi mộ để đánh dấu.
Thi hài GS Đặng Văn Ngữ và các cán bộ của đoàn nghiên cứu nằm lặng lẽ suốt hơn 20 năm. Đến năm 1995, một người đốn củi tình cờ tìm thấy gói vải dù bọc hài cốt và một tấm biển nhôm khắc vỏn vẹn dòng chữ: “Đặng Văn Ngữ 1/4/1967”. Vì không có chữ "BS", người ta cho rằng đây là hài cốt một chiến sĩ vô danh nên đã đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phong Mỹ (cũ) tại Huế.

NSND Đặng Nhật Minh (bìa phải) tại nấm mộ của GS Đặng Văn Ngữ ở nghĩa trang liệt sĩ xã Phong Mỹ (Ảnh: Tư liệu).
Tháng 8/2000, gia đình tìm được hài cốt GS Đặng Văn Ngữ và xin phép chính quyền địa phương sở tại cho di dời về quê nhà chăm sóc. Tháng 12 năm đó, BS Lịch cùng các cán bộ của viện vào Huế, tiễn đưa người thầy đáng kính về nơi an nghỉ vĩnh hằng trong nghĩa trang họ Đặng trên núi Ngự Bình.
Trong giây phút trùng phùng sau hơn 30 năm xa cách, những hình ảnh của năm xưa như sống dậy trong tâm trí BS Lịch. Mùi ẩm của đất rừng Trường Sơn, tiếng côn trùng trong đêm, ánh đèn pin leo lét bên tấm màn trắng, giọng nói trầm ấm của người thầy mỗi khi trao đổi chuyên môn, tất cả như còn ở đó, chưa từng rời xa.
"Tiễn thầy lần cuối trở về Huế, lòng tôi thanh thản phần nào, như thể đã gỡ được một tấm đá âm thầm đè nặng suốt mấy chục năm qua. Cuối cùng, sau bao năm nằm lặng lẽ giữa rừng sâu, thầy và đồng đội tôi cũng được trở về yên nghỉ trong vòng tay người thân của mình", nữ bác sĩ bộc bạch.
Trong cuốn sổ lưu niệm đặt bên mộ, BS Lịch cùng đồng đội viết những dòng gửi người thầy kính yêu: "Thưa thầy, chúng con - những học trò của thầy gồm Bửu, Hiển, Lịch, Oánh… - đón thầy về Huế, mảnh đất mà suốt những tháng ngày sống ở chiến khu, thầy luôn nhắc đến.
Chúng con cảm ơn mọi người đã có công tìm thấy phần mộ thầy và các em Tuyên, Thành sau hơn 30 năm xa cách. Chúng con đón thầy về với bao nước mắt và tấm lòng yêu quý, biết ơn sâu sắc. Thầy sống mãi trong lòng chúng con".
BS Trần Thị Lịch tin rằng, GS Đặng Văn Ngữ đã đi xa, công trình nghiên cứu vaccine sốt rét năm xưa đã khép lại, nhưng lý tưởng của ông như ngọn đèn sáng không bao giờ lụi tàn, luôn soi rọi con đường cho những thế hệ nối tiếp.

Bác sĩ Trần Thị Lịch hiện sống tại Hà Nội (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Trò chuyện với phóng viên Dân trí, BS Đặng Phương Lan - con gái NSND Đặng Nhật Minh, cháu nội GS Đặng Văn Ngữ - cho biết, chị từng gặp BS Trần Thị Lịch tại Hội nghị khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh của GS Đặng Văn Ngữ hồi năm 2010.
Đồng cảm với những chia sẻ từ BS Trần Thị Lịch, BS Đặng Phương Lan cũng luôn ngưỡng mộ tinh thần cống hiến, không ngại khó khăn của ông nội. Chưa từng được gặp, nhưng tìm hiểu về cuộc đời ông nội và những nghiên cứu khoa học của ông khiến BS Đặng Phương Lan cảm thấy hãnh diện, xem ông là một tấm gương về nghị lực làm việc và tinh thần vượt lên số phận.
BS Trần Thị Lịch (SN 1940) là bác sĩ chuyên khoa 1 ngành Ký sinh trùng. Khi Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương được thành lập năm 1957, bà vào làm việc tại đây, là một trong những cán bộ đầu tiên và là học trò trực tiếp của Giáo sư Đặng Văn Ngữ. Bà công tác tại viện cho đến khi nghỉ hưu năm 1990.
GS Đặng Văn Ngữ sinh năm 1910 tại Huế. Năm 20 tuổi, ông đỗ tú tài và nhận được học bổng tại Trường Y khoa Đông Dương (tiền thân của Trường Đại học Y Dược Hà Nội). Với 19 công trình khoa học được công bố, ông được xem là ''nhà ký sinh trùng học hàng đầu châu Á''. Trong thời gian tu nghiệp ở Nhật, ông tìm ra giống nấm sản xuất Penicillin và công bố 4 công trình khoa học có giá trị.
GS Đặng Văn Ngữ là người sáng lập và là viện trưởng đầu tiên của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương.

























