DMagazine

Bài 2: "Thép" và "hoa hồng" trong những lá thư thời chiến

(Dân trí) - Giữa đạn bom, giữa lằn ranh sự sống và cái chết, những lá thư thấm đẫm yêu thương, chờ đợi của người con gái nơi hậu phương, như mạch nước ngầm mát lành, êm dịu, tưới mát tâm hồn người lính trẻ.

Giữa đạn bom, giữa lằn ranh sự sống và cái chết, những lá thư thấm đẫm yêu thương, tin tưởng, chờ đợi của người con gái nơi hậu phương, như mạch nước ngầm mát lành, êm dịu, tưới mát tâm hồn người lính trẻ.

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 1

Gần 10 năm nay, bà Lê Thị Kim Dung (78 tuổi) chỉ quanh quẩn trong căn nhà nép bên ngõ nhỏ ở thành phố Vinh (Nghệ An). Từ hồi ông Phạm Xuân Sinh (84 tuổi) bị tai biến, phải ngồi xe lăn, hầu như bà không rời chồng nửa bước. Tình yêu của họ được ươm mầm trong chiến tranh, thử thách qua bom đạn và xa cách, suốt 60 năm qua vẫn gắn bó bền chặt bên nhau. Thời gian, tuổi tác, sức khỏe không làm phai mờ tình yêu của họ mà trái lại, càng khiến con cháu ngưỡng mộ hơn về một tình yêu đã hòa vào tình yêu Tổ quốc...

Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, anh giáo làng Phạm Xuân Sinh với khát vọng tuổi trẻ phải ra tiền tuyến, đã nhiều lần viết "tâm thư" xung phong nhập ngũ. Rồi nguyện vọng tha thiết của anh đã được ngành giáo dục và địa phương chấp thuận. Năm 1961, anh nhập ngũ vào Tiểu đoàn 27 Công binh (nay là Lữ đoàn Công binh Hải Vân, Quân khu IV).

Sau một thời gian huấn luyện, chiến đấu, anh lính trẻ Phạm Xuân Sinh được cử ra Bắc học sỹ quan. Năm 1964, anh về thực tập tại đơn vị đóng quân ở huyện Nam Đàn (Nghệ An), cách nhà mấy chục cây số. Mải mê công tác, học tập, chiến đấu, anh lính chưa tìm được một "mảnh tình vắt vai" nào.

Thời điểm đó, cô thôn nữ Kim Dung cũng vừa học hết chương trình lớp 7 đã tham gia chấp hành Đoàn xã, đồng thời phụ trách lớp vỡ lòng. Giữa họ cũng chỉ là biết nhau do cùng quê chứ chưa có ấn tượng đặc biệt gì về đối phương. Một người đồng nghiệp cũ đã "thiết kế" cuộc gặp gỡ để se duyên giúp anh lính trẻ Phạm Xuân Sinh và nữ giáo viên dạy vỡ lòng Lê Thị Kim Dung.

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 3

"Thời đó, bộ đội "có giá" lắm. Tiêu chí chọn người yêu của tôi phải là bộ đội. Lý tưởng của tuổi trẻ chúng tôi lúc đó đều như thế cả", bà Dung vui vẻ nói.

Những buổi hò hẹn ban đầu, ông Sinh tranh thủ đạp xe hàng chục cây số để về quê gặp bạn gái luôn bị gián đoạn bởi tiếng còi báo động. Có đôi lần, bà Dung đành "bỏ rơi" người yêu để... đi bắt biệt kích. Chiến tranh ngày càng ác liệt, họ phải xa cách nhau khi tình yêu vừa chớm nở để bước vào nhiệm vụ mới. Ông Sinh được cử vào chiến trường, mang theo tình yêu của người con gái nơi quê nhà.

Những lá thư tình có "thép" của người lính giải phóng (Video: Hoàng Lam).

Bà Dung muốn sát cánh bên người mình yêu, nhiều lần xung phong ra hỏa tuyến nhưng cấp trên giải thích nhiệm vụ nào cũng quan trọng, không cứ phải cầm súng ra mặt trận mới là chiến đấu vì Tổ quốc. Những người ở hậu phương phải thi đua học tập, phát triển hơn nữa, để sau này, khi hòa bình, sẽ chung tay xây dựng đất nước.

Theo sự động viên và phân công của tổ chức, bà vừa phụ trách lớp học vỡ lòng, vừa đi bộ hàng chục cây số học bổ túc văn hóa. Năm 1966, cô gái trẻ Lê Thị Kim Dung được cử đi học tại trường Đoàn trung ương rồi về công tác tại Ban tổ chức Trung ương Đoàn. Còn anh lính Phạm Xuân Sinh vẫn cầm súng chiến đấu ở những chiến trường ác liệt.

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 5

6 năm yêu xa, tình cảm của họ vẫn gắn bó bền chặt. Năm 1970, bà Dung lúc này đang là sinh viên Trường cơ điện Thái Nguyên, nhân dịp ông Sinh được cử ra Bắc học văn hóa để chuẩn bị sang Liên Xô học nâng cao, một đám cưới giản dị đã được tổ chức ở quê nhà. Cưới xong, do yêu cầu công tác, ông Sinh phải quay trở lại chiến trường. Cuộc sống kham khổ, thiếu thốn khiến bà Dung sinh non khi thai mới được 7,5 tháng.

"Không thể nói hết giai đoạn khó khăn ấy đâu. Chồng thì xa, chẳng biết sống chết thế nào, con thì bé, ốm đau, rồi học hành, công tác... Cách liên lạc duy nhất là viết thư. Viết để chia sẻ, động viên nhau thôi chứ không có chuyện kể khổ, kêu khó làm nhụt ý chí của nhau. Những lá thư của ông ấy trở thành điểm tựa tinh thần để tôi hoàn thành tốt việc học và nuôi con...", bà Dung chia sẻ.

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 7

Tình yêu của họ được vun đắp và nối dài bằng những lá thư viết vội. Giữa đạn bom ác liệt, giữa bề bộn cuộc sống và yêu cầu công tác, những cánh thư vẫn miệt mài được viết, được gửi đi. Những lá thư có cả "chất thép" và "hoa hồng"...

"Tôi không nhớ đã viết bao nhiêu thư gửi về cho bà ấy. Rảnh lúc nào thì viết lúc đó thôi, có khi là sau một trận chống càn, có khi là trở về sau một trận đánh, hay giữa đêm mưa rừng ầm ào không thể ngủ. Có lá thư chỉ là mấy dòng viết vội trên tờ giấy mỏng dính, bé bằng bàn tay, có lá dài mấy trang khổ lớn...", Đại tá Phạm Xuân Sinh nhớ lại.

Những lá thư đã úa màu, nhiều đoạn mờ nhòe, không còn rõ chữ, được vợ chồng ông gìn giữ, nâng niu. Một số lá thư đã được ông bà hiến tặng Bảo tàng Quân khu 4 để trưng bày, phục vụ công tác tuyên truyền. Những lúc rảnh rỗi, ông bà lại lần dở những lá thư, đọc cho nhau nghe, hồi tưởng về một thời gian khó nhưng tràn ngập tình yêu và tin tưởng...

"Mấy ngày gần đây, nơi anh đang ngồi biên thư cho em - tình hình chiến sự xảy ra tương đối ác liệt... Chúng tưởng dùng sức mạnh sắt thép của Mỹ là có thể khuất phục được trái tim và ý chí của những người chiến sỹ trẻ nhưng chúng đã lầm to. Sức mạnh sắt thép của chúng chỉ làm cho đất cát tung lên, cây cối cháy trơ trụi, khét lẹt chứ không thể nào khuất phục được họ. Bởi vì họ là những người chiến sỹ cách mạng, được trang bị bằng một thứ vũ khí tuyệt mạnh, mạnh gấp ngàn lần sắt thép... Thật đáng tự hào cho tuổi trẻ của chúng ta em ạ. Lứa tuổi được lớn lên trong thời đại anh hùng, thời đại hừng hực lửa chiến đấu và được trưởng thành trong thử thách, rèn luyện của cuộc chiến thần thánh vì lý tưởng cao đẹp của chúng ta."

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 9

Trong những lá thư, không chỉ là lời tâm tình yêu thương trai gái đơn thuần, mà họ còn nhìn thấy trách nhiệm của mỗi người, trách nhiệm của nhau đối với vận mệnh của dân tộc.

"Em! Có phải đến bây giờ chúng ta mới hiểu đâu, mà ngay từ những buổi đầu chúng ta đã hiểu - hiểu một cách tự giác, cái chân lý ngàn đời không thay đổi: Tình yêu chưa thể trọn, hạnh phúc, chưa thể đủ đầy khi quân thù đang còn giày xéo non sông. Đối với chúng ta, hạnh phúc chỉ có thể trọn vẹn, đủ đầy khi mà xung quanh ta rộn vang những tiếng trống, tiếng kẻng không phải báo hiệu quân cướp biển, cướp trời, cướp đất đến mà là những tiếng báo hiệu một ngày hội thanh bình, một mùa xuân trong độc lập tự do thật sự".

Trong nhiều lá thư gửi về, người lính luôn lạc quan, tin tưởng về chiến thắng như một điều tất yếu của lịch sử, khi mà những con người lớn lên trong thời đại ấy biết sống xa nhau, tin tưởng nhau, yêu thương nhau và sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân cho những điều lớn lao hơn. Trong một lá thư viết trước năm 1970, người lính Phạm Xuân Sinh đã dự cảm về ngày chiến thắng: "Hẹn gặp lại em sau ngày chiến thắng trở về. Ngày ấy tin rằng sẽ không xa nữa! Hôn em".

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 11

Trong cuộc đời binh nghiệp, người lính công binh Phạm Xuân Sinh có mặt hầu khắp chiến trường lớn, ác liệt, tham gia các chiến dịch lớn như chiến dịch Làng Vây, đường 9 Khe Sanh, 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, chiến dịch Hồ Chí Minh... Giữa đạn bom, giữa lằn ranh sự sống và cái chết, những lá thư thấm đẫm yêu thương, tin tưởng, chờ đợi của người con gái anh yêu, như mạch nước ngầm ấm áp, êm dịu, xua tan khốc liệt của chiến tranh.

Trong một lá thư, ông viết: "Thư em đã xua tan tất cả sự mệt nhọc sau một đêm thức trắng xuyên rừng lội suối, vượt đèo về đơn vị. Thư em mang đến cho anh một tình cảm nồng thắm, thiết tha, chân thực của một tình yêu chung thủy, của một người vợ hiền sắp cưới ở hậu phương lớn gửi ra tiền tuyến lớn...".

Những lá thư, có khi đến được với người lính giữa chiến trường đã chậm 3-4 tháng, thậm chí lâu hơn nữa so với thời điểm được gửi đi, trở thành tài sản chung của cả đơn vị.

"Thời đại của chúng ta đều chung một ý chí, chung một lý tưởng, chung cả niềm vui của từng cá nhân. Ai cũng có nhu cầu chia sẻ và được chia sẻ niềm vui, sự động viên từ hậu phương. Tình yêu của mỗi người hòa vào tình yêu đất nước, bởi vậy không có sự riêng tư nào hết. Những lá thư vượt bom đạn, vượt đường thiên lý vào tới chiến trường được lính tráng chuyền tay nhau đọc, trở thành tài sản tinh thần chung của cả đơn vị", ông Sinh nhớ lại.

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 13

Nếu thư từ hậu phương trở thành niềm động viên đối với người lính thì những dòng chữ viết vội ở chiến trường về cũng là điểm tựa tinh thần lớn lao với những người mẹ, người vợ, người yêu của họ. Những yêu thương, lời động viên của chồng tiếp thêm sức mạnh để bà Dung vững vàng trong cuộc sống, công tác, chu toàn cho gia đình nội ngoại, chăm sóc các con khôn lớn.

Hòa bình lập lại, cứ tưởng gia đình được sum họp, đoàn tụ thì cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Nam, phía Bắc nổ ra, người lính Phạm Xuân Sinh tiếp tục có mặt ở những điểm nóng ác liệt, qua Lào giúp bạn xây dựng sân bay quân sự ở cánh đồng Chum, lên trấn giữ ở biên giới phía Bắc... Những cánh thư tiếp tục trở thành "sợi dây kết nối" giữa vợ chồng họ.

Năm 1993, ông Phạm Xuân Sinh nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Sau 2 lần bị tai biến, ông phải ngồi xe lăn, sinh hoạt cá nhân hầu như nhờ cả vào bàn tay tháo vát của người vợ. Ở tuổi xưa nay hiếm, trải qua bao biến cố trong cuộc sống, tình yêu của họ vẫn luôn bền chặt, thủy chung. Ông Sinh mãn nguyện chứng kiến 4 con trai trưởng thành và luôn bảo "công lao là của bà ấy cả!".

Anh Phạm Nguyên Thanh, người con trai cả của vợ chồng Đại tá Phạm Xuân Sinh chia sẻ: "Sau này anh em chúng tôi được đọc thư bố mẹ gửi cho nhau trong thời gian chiến tranh và hiểu hơn về tình cảm 2 cụ dành cho nhau. Những lá thư không chỉ thể hiện mối tình đẹp của bố mẹ tôi, mà qua đó, chúng tôi thấy rõ hơn lý tưởng cách mạng của cả một thế hệ tuổi trẻ trong giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Lá thư là sợi dây kết nối tình cảm, tạo nên sức mạnh tinh thần để những người như bố tôi, mẹ tôi vượt qua gian khó, hiểm nguy, để cùng cả dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng của cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại".

Bài 2: Thép và hoa hồng trong những lá thư thời chiến - 15

                       Nội dung: Hoàng Lam

                       Thiết kế: Thủy Tiên