Giữ rừng, để không “rưng rưng nước mắt”
Năm ngoái, tôi cùng một nhóm bạn trẻ tham gia dự án trồng rừng tại Lâm Đồng. Ngày hôm đó, trời mưa nhẹ, những luống đất đỏ bazan nhão ra dưới chân, chúng tôi phải vất vả lắm mới trồng được từng cây thông non xuống đất. Có bạn bị ngã, có bạn lấm lem bùn đất, nhưng ai cũng vui vì cảm nhận được ý nghĩa của việc mình làm - dù nhỏ bé - đã góp phần gieo một mầm xanh hy vọng cho một cánh rừng tương lai. Trong khi cuốc đất, một người bạn nói: “Thêm mỗi cây xanh được trồng xuống đất là một phần trách nhiệm với sự sống”. Tâm niệm ấy khiến tôi nhớ mãi.
Thế nhưng, điều trớ trêu là cùng lúc chúng tôi gieo mầm xanh, thì tôi đọc thấy trên truyền thông đưa tin có những nơi nhiều diện tích rừng đang bị chặt phá, bị “xẻ thịt”.

Rừng phòng hộ Cần Giờ (Ảnh minh họa: Trịnh Nguyễn).
Theo số liệu Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố năm 2024, tổng diện tích rừng trên cả nước đạt khoảng 14,87 triệu ha, tỷ lệ che phủ 42,03%; Trong đó có hơn 10,1 triệu ha rừng tự nhiên và 4,7 triệu ha rừng trồng. Khi nêu những số liệu này, từ góc độ một người làm công tác bảo vệ môi trường, tôi muốn khẳng định những nỗ lực và thành quả của việc giữ rừng, phát triển rừng tự nhiên cũng như trồng mới rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc ở nước ta trong nhiều năm qua. Song trong thực tế chúng ta đều đã và đang chứng kiến nhiều cánh rừng bị thu hẹp, bị phá bỏ để nhường cho dự án thủy điện, đô thị, hạ tầng…, hay đơn giản là bị khai thác để lấy gỗ, vì lợi ích kinh tế đơn thuần.
Về chất lượng rừng, cơ cấu cây trồng rừng nhiều năm qua chủ yếu là keo, tăng trưởng nhanh nhưng độ che phủ và độ chống chịu thiên tai còn kém. Do đó Việt Nam muốn tăng chất lượng rừng trồng thì cần phải thay dần bằng cây gỗ lớn, cây bản địa. Với rừng tự nhiên, lãnh đạo ngành Nông nghiệp từng cho biết trong tổng số hơn 10,1 triệu ha chỉ có 15% là rừng giàu về trữ lượng, 50% là rừng trung bình, 35% là rừng nghèo kiệt, nghĩa là diện tích rừng giàu chiếm tỷ lệ thấp.
Cũng cần nói thêm, rừng trồng chưa bao giờ thay thế được rừng tự nhiên. Một ha rừng tự nhiên với hệ sinh thái đa tầng, đa loài, khả năng giữ đất, giữ nước - giống như một hồ nước tự nhiên ở khu vực trên cao, giữ nước và làm chậm dòng chảy khi có mưa lũ, giảm thiệt hại cho khu vực đồng bằng phía dưới. Ngoài ra, rừng tự nhiên còn có tác dụng điều hòa khí hậu gấp nhiều lần rừng trồng đơn loài. Mất rừng tự nhiên là mất cả một “hệ miễn dịch” của thiên nhiên. Thế nên, một trong những điều quan trọng nhất hiện nay không chỉ là trồng mới, mà phải giữ được cái vốn có, bảo vệ từng mảng rừng nguyên sinh, từng cánh rừng già.
Thiên tai bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Song khi nhìn lại các thảm họa thời gian qua, nhất là các trận lũ quét, dễ dàng nhận thấy có sự liên hệ với một phần nguyên nhân từ tình trạng mất rừng. Không phải tự nhiên mà chúng ta đều biết đến một lời nguyền của rừng xanh, đó là “ăn của rừng, rưng rưng nước mắt”.
Câu chuyện bảo vệ rừng, vì vậy, thực sự là bài toán sinh tử, liên quan đến an ninh môi trường, an ninh lương thực, an sinh xã hội và cả sự phát triển bền vững của đất nước. Mỗi cánh rừng bị mất đi là một “kho dự trữ” nước ngọt bị phá hủy, một “nhà máy lọc khí” bị đóng cửa, một “tấm khiên” chống thiên tai bị dỡ bỏ. Nói cách khác, rừng là lá chắn của đất, là mái nhà của thiên nhiên, và là điều kiện tồn tại của con người.
Vậy đâu là giải pháp? Tôi chỉ xin nhắc lại những vấn đề đã được đúc kết lâu nay. Trước hết, cần siết chặt quản lý và nâng trách nhiệm pháp lý đến cùng. Luật Lâm nghiệp đã quy định rõ trách nhiệm của UBND các cấp trong việc quản lý rừng, nhưng thực tế vẫn còn tình trạng buông lỏng. Nếu địa phương để mất rừng tự nhiên, phải có kiểm điểm, xử lý trách nhiệm người đứng đầu. Bởi lẽ, khi quyền lợi kinh tế ngắn hạn lấn át, rừng sẽ mãi là nạn nhân.
Thứ hai, cần xây dựng cơ chế giám sát cộng đồng. Người dân sống quanh rừng phải được trao quyền và khuyến khích tham gia bảo vệ rừng, bởi họ là những người đầu tiên chứng kiến rừng bị chặt phá, đất bị xói mòn. Một hộ dân được hưởng lợi trực tiếp từ việc giữ rừng - thông qua chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng - sẽ có động lực mạnh mẽ hơn nhiều để bảo vệ.
Thứ ba, phải thay đổi cách phát triển kinh tế. Không thể mãi dựa vào việc “lấy đất rừng đổi dự án”. Thế giới đã chứng minh, kinh tế xanh - du lịch sinh thái, nông nghiệp bền vững dưới tán rừng - mới là hướng đi lâu dài.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh giáo dục cộng đồng, đặc biệt với giới trẻ. Khi tham gia trồng rừng ở Lâm Đồng, tôi thấy rõ: nếu mỗi thanh niên đều ý thức được giá trị của cây xanh, của rừng, thì điều này có thể lan rộng thành một thói quen xã hội. Rừng không thể phục hồi chỉ trong vài năm, nhưng ý thức bảo vệ có thể hình thành ngay hôm nay.
Cũng cần nhìn thẳng vào thói quen tiêu dùng. Gỗ, than củi, sản phẩm từ rừng tự nhiên… nếu còn được tiêu thụ rộng rãi, thì rừng vẫn còn bị khai thác trái phép. Muốn bảo vệ rừng, mỗi người dân cần trở thành người tiêu dùng có trách nhiệm, không tiếp tay cho những sản phẩm phá rừng.
Năm ngoái, tôi đã trồng một cây thông ở Lâm Đồng. Có thể tôi không kịp thấy nó trưởng thành, nhưng tôi tin rằng, mầm cây ấy nếu lớn lên sẽ góp một phần vào mái che xanh cho thế hệ sau. Giữ rừng không phải việc của riêng ai, mà là trách nhiệm của cả cộng đồng. Bởi nếu chúng ta không biết giữ lấy rừng hôm nay, ngày mai, chính sự sống của chúng ta sẽ bị cuốn trôi.
Tác giả: Anh Nguyễn Bá Hội là kỹ sư môi trường, có hơn 15 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực quản lý môi trường ở Sở Nông nghiệp và Môi trường TPHCM. Hiện ông là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thực hành sống xanh và là nghiên cứu viên môi trường Viện Sinh học Nhiệt đới - Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!



















