(Dân trí) - Những ca phẫu thuật không có thuốc gây mê khiến bệnh nhân đau "cắt da, cắt thịt" theo đúng nghĩa đen. Vì thế, nhiều người chấp nhận chết vì bệnh tật còn hơn lên bàn mổ.
Những ca phẫu thuật không có thuốc gây mê khiến bệnh nhân đau "cắt da, cắt thịt" theo đúng nghĩa đen. Vì thế, nhiều người chấp nhận chết vì bệnh tật còn hơn lên bàn mổ.
Ngày 16/10/1846, BS William Morton, một nha sĩ người Mỹ đã thực hiện cuộc phẫu thuật đi vào lịch sử. Trước sự chứng kiến của rất nhiều chuyên gia y khoa trên toàn thế giới, BS Morton đã sử dụng khí ete để gây mê cho bệnh nhân, sau đó thực hiện ca mổ loại bỏ khối u ở cổ bệnh nhân một cách "không đau đớn".
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử y khoa thế giới, phương pháp trị liệu gây mê được sử dụng trong một ca phẫu thuật, chấm dứt một giai đoạn kéo dài hàng ngàn năm, khi những ca mổ gắn liền với cơn đau "cắt da, cắt thịt" theo đúng nghĩa đen.
BS William Morton cũng được công nhận là người đầu tiên phát minh trị liệu gây mê.
Henry J. Bigelow, một nhà phẫu thuật nổi tiếng có mặt trong buổi trình diễn phẫu thuật đó đã bình luận: "Sự kiện tôi đã thấy hôm nay sẽ lan đi toàn thế giới".
Trước khi trị liệu gây mê được áp dụng, tất cả ca phẫu thuật lớn nhỏ, từ nhổ răng, phẫu thuật cắt vú, mổ mắt, mổ bắt con... đều được thực hiện khi bệnh nhân tỉnh táo. Do đó, phẫu thuật vào thời kỳ này được mô tả là "nỗi ám ảnh kinh hoàng".
"Thời đại của sự đau đớn" là cách nhà triết học người Mỹ Charles Sanders Peirce dùng để gọi thế kỷ 19, xuất phát từ những ca "mổ sống" này.
Hình ảnh đặc trưng trong các ca phẫu thuật vào thời kỳ này là lực lượng y tá đứng xung quanh bàn mổ, gắng sức ghìm chặt chân tay, cơ thể của bệnh nhân, không cho họ giãy giụa, để bác sĩ có thể thực hiện thao tác phẫu thuật.
Một bài viết được xuất bản trên tạp chí y khoa The Lancet vào năm 1824 chia sẻ về cách những ca phẫu thuật được tiến hành tại Bệnh viện Guy's and St Thomas (London, Anh) như sau: Khi bác sĩ xác định một bệnh nhân sẽ phải phẫu thuật, khoảng thời gian chờ đợi đến khi mổ sẽ là sự tăng tiến dần của cảm giác lo lắng và đau khổ.
Khoảng thời gian chờ này có thể kéo dài từ vài giờ cho đến vài ngày và thường do chính bệnh nhân yêu cầu.
Một trong những ca phẫu thuật "kinh hoàng" nhất được mô tả lại trong tạp chí này là ca mổ lấy sỏi trong bàng quang của một cậu bé.
"Sau khi luồn công cụ thăm dò thông qua niệu đạo để đến bàng quang, bác sĩ lại không thể nào cảm nhận được viên sỏi. Việc "lần mò" viên sỏi khiến bệnh nhân phải chịu cơn đau khủng khiếp trong nhiều phút. Toàn bộ quá trình thăm dò sỏi bàng quang này kéo dài khoảng 20 phút và trong suốt khoảng thời gian này, cậu bé liên tục la hét. Trước khi ca phẫu thuật thực sự bắt đầu, bệnh nhân đã gần như kiệt sức", bài viết mô tả.
Trong một ca phẫu thuật sỏi thận của bác sĩ Robert Liston (một bác sĩ phẫu thuật người Anh), một bệnh nhân do quá hoảng loạn, đau đớn đã nhảy khỏi bàn giữa ca mổ, rồi tự khóa mình trong phòng vệ sinh. Sau đó, BS Robert Liston cùng các đồng nghiệp đã phải phá cửa, đưa bệnh nhân trở lại bàn mổ và tiếp tục ca phẫu thuật.
Một ca phẫu thuật nổi tiếng khác được mô tả lại là ca phẫu thuật ngực của một người phụ nữ tên là Burney được thực hiện ở Pháp.
Trong suốt ca phẫu thuật, Burney đã không ngừng la hét. Cô ấy đã ngất đi 2 lần trong suốt ca phẫu thuật. Tuy nhiên, điều may mắn là kết thúc ca phẫu thuật, Burney vẫn sống và cô ấy đã sống tiếp thêm 29 năm nữa cũng nhờ ca mổ này.
Trái ngược với Burney, nhiều bệnh nhân thời kỳ đó chấp nhận chết vì bệnh tật còn hơn trải qua cảm giác đau đớn tột cùng trên bàn mổ. Phần lớn những người dị tật, u nhọt chấp nhận sống với bệnh suốt đời.
Trên thực tế, nha khoa là một trong số ít loại phẫu thuật tương đối phổ biến hơn trong thời kỳ này, bởi vì sự đau đớn và nguy hiểm khi thực hiện nó thấp hơn so với phẫu thuật ở những vị trí khác.
Việc không có các phương pháp gây mê để chống sốc, cũng như các phương pháp để ngăn chặn hiệu quả tình trạng mất máu và nhiễm trùng sau phẫu thuật cũng đã đặt ra một rào cản khiến các bác sĩ phẫu thuật, thời kỳ này, gần như không thể thâm nhập vào 3 khoang chính của cơ thể: lồng ngực, bụng và hộp sọ.
Trước khi có phương pháp gây mê, một vài phương thức làm giảm đau cho phẫu thuật đã được sử dụng (như cho uống rượu say, dùng lá hasit & dẫn xuất của thuốc phiện). Trong một số trường hợp, phương pháp vật lý cũng được sử dụng để làm giảm đau (như ngâm chân tay trong băng hoặc thắt chặt mạch máu bằng garo).
Thậm chí, có cả phương pháp làm mất tri giác bằng cách đánh mạnh vào đầu hoặc bóp cổ để làm mê man. Dĩ nhiên đi cùng với những phương pháp cực đoan này là rủi ro lớn cho sức khỏe của bệnh nhân.
Các tài liệu thu thập được từ thời La Mã đến thời trung cổ đã mô tả một công thức cho thuốc an thần được gọi là "Dwale". Loại thuốc này được pha chế từ mật lợn rừng, thuốc phiện, nước ép cây mandrake, cây huyết dụ và giấm. Theo mô tả, Dwale sẽ khiến "một người đàn ông ngủ trong khi một người khác có thể cắt tay anh ta".
Từ những năm 1600 trở đi ở châu Âu, thuốc phiện và laudanum (thuốc phiện hòa tan trong rượu) trở thành thuốc giảm đau phổ biến.
Thời kỳ sau đó, khi các bác sĩ phẫu thuật tìm kiếm những cách thức mới để giảm đau cho bệnh nhân, một số phương pháp khác thường cũng đã ra đời.
Một trong số đó là kỹ thuật liên quan đến việc tạo áp lực lên các động mạch để khiến bệnh nhân bất tỉnh, hoặc tạo áp lực lên các dây thần kinh để gây tê đột ngột ở các chi.
Năm 1784, một bác sĩ phẫu thuật người Anh tên là John Hunter đã thử ép các dây thần kinh bằng cách buộc garo vào tay bệnh nhân và gây tê. Điều đáng ngạc nhiên là nó đã phát huy hiệu quả: Hunter có thể cắt cụt một chi và dường như bệnh nhân không cảm thấy đau đớn.
Thực hiện ca mổ nhanh nhất có thể cũng chính là những biện pháp giảm đau đớn và tăng tỷ lệ sống sót cho bệnh nhân khi phương pháp gây mê chưa ra đời.
Vào thế kỷ 19, mỗi ca phẫu thuật trung bình chỉ kéo dài từ 45 giây đến 45 phút. Để làm được điều này, các bác sĩ phải thao tác cực nhanh và chính xác.
Robert Liston là một bác sĩ phẫu thuật người Anh nổi tiếng với khả năng mổ đúng kỹ thuật, nhanh và tỷ lệ tử vong thấp (chỉ 10%). Ông từng mổ lấy khối u 20 kg chỉ trong 4 phút, cắt tay bệnh nhân trong 28 giây.
Sai sót về kỹ thuật mổ hiếm khi xảy ra, song tỷ lệ tử vong trong và sau phẫu thuật rất cao, trung bình cứ 4 bệnh nhân phẫu thuật lại có một người chết do sốc vì quá đau đớn, hoặc nhiễm trùng (tỷ lệ tử vong 25%).
Để ca phẫu thuật được thực hiện hiệu quả nhất, các bác sĩ thường sẽ dành nhiều thời gian làm quen với cơ thể cũng như tìm hiểu kỹ tình trạng bệnh của bệnh nhân. Trước khi ca phẫu thuật diễn ra, bệnh nhân sẽ được yêu cầu đến gặp bác sĩ nhiều lần để trò chuyện và thăm khám. Thậm chí bệnh nhân còn được massage mặt, chân tay như là cách để trấn an và khiến cơ thể họ bớt nhạy cảm, khi bị tay phẫu thuật viên chạm vào người trong ca mổ.
Cho đến giữa những năm 1800, các nhà khoa học và bác sĩ phẫu thuật ngày càng quan tâm đến việc sử dụng một hợp chất hữu cơ có mùi ngọt gọi là ete, được tạo ra bằng cách chưng cất etanol với axit sulfuric trong lâm sàng.
Trên thực tế, các ghi chép về quá trình sản xuất ete có từ thế kỷ 13. Vào thế kỷ 16, các bác sĩ thử nghiệm ete và đã phát hiện ra nó có thể gây mê gà. Tuy nhiên, ete lúc này vẫn được xem là một "chất bí ẩn".
Vài trăm năm sau, các bác sĩ phẫu thuật đã xem xét lại tiềm năng của ete trong việc ứng dụng vào công việc của họ. Ca phẫu thuật của BS William Morton vào năm 1846 (nêu ở đầu bài) chính là bằng chứng lâm sàng đầu tiên cho thấy việc sử dụng khí này một cách có tính toán có thể gây mê và giảm đau.
Sau đó, vào năm 1848, các bác sĩ phẫu thuật đã chứng minh rằng một hợp chất khác, được gọi là chloroform, có thể giảm đau khi sinh con và các cuộc phẫu thuật khác.
Điều quan trọng là ete và chloroform cho phép bác sĩ phẫu thuật kiểm soát nhiều hơn tình trạng của bệnh nhân. Bằng cách quản lý cơn đau của bệnh nhân và đưa họ vào giấc ngủ, nó giúp bác sĩ có thêm thời gian để phẫu thuật.
Theo thời gian, kỹ thuật gây mê cho phép bác sĩ thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp hơn và tỷ lệ thành công cao hơn.
Hiện nay, cả hai loại khí này đều không được sử dụng trong phẫu thuật nữa, nhưng ete và chloroform đã đặt nền móng cho sự phát triển của các loại thuốc an toàn hơn và hiệu quả hơn, biến gây mê thành một lĩnh vực có vai trò tối quan trọng trong y khoa như hiện nay.
Nội dung: Minh Nhật
Thiết kế: Nguyễn Vượng