Chuyện chưa kể về buổi hội ngộ tinh hoa bác sĩ nội trú đời đầu gây bão mạng
(Dân trí) - Gốc phượng trong sân trường Đại học Y Hà Nội bỗng trở thành điểm hẹn của một lớp bác sĩ đặc biệt, nơi những người từng đứng đầu ngành Y tìm lại ký ức của thời nội trú nhiều gian khó.
Chiều cuối tháng 10, sân Trường Đại học Y Hà Nội nhiều gió. Dưới gốc phượng trước khu nhà học, một nhóm người tóc điểm bạc đứng xếp hàng chụp ảnh, cười rạng rỡ như những sinh viên vừa thi xong môn giải phẫu.
Họ từng là bác sĩ nội trú khóa 6 của trường, nay hầu hết đã nghỉ hưu. Trong số đó có GS.TS.BS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Trưởng khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai. Ông đến muộn vì buổi sáng vẫn còn lịch khám bệnh.
Trò chuyện với phóng viên Dân trí, vị bác sĩ nhi khoa chia sẻ rằng những cuộc gặp như vậy không chỉ ôn kỷ niệm mà còn để nhìn lại một thế hệ bác sĩ mà nhiều người trong ngành vẫn gọi là “tinh hoa”.
Lớp học đặc biệt toàn giám đốc và trưởng khoa
Theo lời kể của GS Dũng, lớp bác sĩ nội trú khóa 6 chỉ có 24 người. Tuy ít về số lượng nhưng sau khi tốt nghiệp, hầu hết đều giữ vị trí quan trọng trong ngành Y.
Trong danh sách có Giám đốc Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương; Giám đốc Bệnh viện Mắt Trung ương; Các Trưởng bộ môn Di truyền Sinh học, Trưởng bộ môn Sinh lý, Trưởng khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai, Trưởng bộ môn Ký sinh trùng của Trường Đại học Y Hà Nội; Trưởng khoa Vi sinh của Bệnh viện Hữu Nghị; Bác sĩ Giải phẫu, công tác tại Angola nhiều năm; Phó Khoa Thận nhân tạo, Bệnh viện Bạch Mai và một số người khác thuộc Viện Dinh dưỡng, Bộ môn Hóa sinh; Trưởng đơn vị Nam học, Bệnh viện Việt Đức; Trưởng bộ môn Vi sinh, Trưởng bộ môn Mắt của Trường Đại học Y Hà Nội...
Tất cả đều đã nghỉ hưu theo quy định nhưng chưa hoàn toàn rời khỏi nghề. Khoảng ⅓ trong số họ vẫn tham gia khám bệnh, giảng dạy, hội chẩn tại các cơ sở y tế.
Mỗi năm một lần, vào tháng 10, họ hẹn nhau trở lại trường học cũ, chụp ảnh dưới gốc phượng và ăn cơm ở nhà ăn sinh viên.
“Cách đây 5-6 năm, lớp nội trú đã tặng nhà trường một cây phượng là món quà kỷ niệm nhân dịp 50 năm đào tạo bác sĩ nội trú. Năm nào chúng tôi cũng họp lớp và chụp với cây phượng này”, GS Dũng cho biết.
Ý tưởng họp lớp đều đặn đã được nhen nhóm từ lâu. Thời còn là nội trú, cả lớp rất ít khi gặp nhau. Buổi học tiếng Nga mỗi tuần là cơ hội hiếm hoi để tất cả gặp mặt.
“Chỉ đến khi mọi người lần lượt về hưu, lớp mới duy trì được các buổi gặp thường xuyên. Trong nhiều năm, lịch làm việc của một lớp toàn giám đốc bệnh viện, trưởng khoa, trưởng bộ môn khiến chúng tôi muốn gặp nhau cũng khó”, vị giáo sư chia sẻ.
Bây giờ, khi đã “hoàn thành nhiệm vụ”, các thành viên có thể dành thời gian cho nhau, vừa ôn chuyện cũ vừa động viên nhau giữ gìn sức khỏe, chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn mới.
Lò luyện nội trú những năm bao cấp

GS Dũng tham dự lễ vinh danh Đảng viên khoác áo blouse trắng do Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương tổ chức (Ảnh: NVCC).
Con đường trở thành bác sĩ nội trú thời ấy không hề đơn giản. Ngay từ năm thứ nhất, sinh viên đã được giới thiệu về hệ đào tạo đặc biệt. Muốn đạt tiêu chuẩn đăng ký thi, suốt 4 năm đầu, sinh viên không được thi lại bất kỳ môn nào. Từ năm thứ tư, mọi môn học đều phải đạt từ 7.0 điểm trở lên.
“Điểm 9 ngày xưa đã là rất khó, điểm 10 gần như không có. Một lần thi lại vì bất cứ lý do gì cũng coi như mất cơ hội nội trú”, vị bác sĩ nhi khoa phân tích.
Theo thống kê, số sinh viên ban đầu khoảng hơn 400 người, trong đó 80 người đủ điều kiện bước vào vòng hồ sơ. Sau quá trình ôn luyện và sàng lọc tự nhiên, khoảng 50 người dự thi chính thức. Kết quả cuối cùng chỉ 24 người vượt qua đủ 4 phần thi bao gồm lý thuyết, vấn đáp, thực hành bệnh viện và ngoại ngữ.
Quy định thời điểm đó yêu cầu mỗi môn phải đạt từ 5.0 điểm trở lên và tổng điểm ít nhất 25. Không có chỉ tiêu cứng nên nếu không ai đạt, nhà trường sẵn sàng không tuyển. Năm đó, với 41/50 điểm, GS Dũng đã trở thành thủ khoa.
“Được 1 người cũng tuyển, mà 20 người cũng tuyển vì chất lượng được đặt lên hàng đầu. Nếu không có ai đạt cũng không sao”, vị bác sĩ nhi khoa cho biết.
GS Dũng cho rằng cách tuyển chọn đó chú trọng chất lượng nhiều hơn số lượng. Theo ông, thi trắc nghiệm chỉ phản ánh một phần năng lực vì chủ yếu kiểm tra lý thuyết. Với ngành y, thực hành mới là yếu tố quyết định.
“Trước mặt là một bệnh nhân, người giỏi thực hành có thể khám ra bệnh còn người chỉ giỏi lý thuyết chưa chắc đã tìm ra. Sau khi chẩn đoán được rồi, lại cần đến kinh nghiệm để điều trị. Tay nghề trong ngành y vì thế khác với nhiều ngành khác”, ông nói.
Chương trình nội trú kéo dài 4 năm: 1 năm đầu học tại trường. 3 năm tiếp theo sống và làm việc như bác sĩ thực thụ trong bệnh viện. Nội trú không được thuê nhà ngoài, bệnh viện có trách nhiệm bố trí chỗ ở ngay trong khuôn viên.
Ngày làm việc thường bắt đầu từ sáng sớm, kết thúc lúc 22 giờ, thêm những ca trực đêm luân phiên. Chủ nhật là ngày duy nhất có thể gọi là nghỉ, nhưng nếu có ca bệnh nặng, nội trú vẫn phải có mặt.
Khi ấy, đất nước còn trong thời kỳ bao cấp, kinh tế khó khăn, vật tư y tế thiếu thốn. Sinh viên y được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Khi thi đỗ vào trường, GS Dũng ở ký túc xá với 12 người một phòng.
“Chúng tôi chỉ việc mua một chiếc chiếu, còn giường, điện nước đều có sẵn. Hằng ngày lên nhà ăn nhận phiếu. Thức ăn chủ yếu là cơm và rau, thỉnh thoảng mới có thêm thịt”, ông nhớ lại.
Nhiều sinh viên thời ấy vẫn thường đùa rằng đạm là những phần tử nhỏ li ti mà mắt thường không nhìn thấy. Bát phở chỉ có bánh, không có thịt được gọi vui là phở không người lái. Dù vậy, chính chế độ bao cấp giúp những sinh viên nghèo có thể theo học hết 6 năm và sau đó là nội trú.
“Nếu gia đình tôi ngày xưa phải trả học phí, tiền nhà, tiền ăn như bây giờ, chắc chắn tôi không thể học y, càng không thể vào nội trú”, GS Dũng thẳng thắn.
Sau khi tốt nghiệp nội trú, các bác sĩ khóa 6 không được chọn nơi về như hiện nay. Bộ Y tế giữ lại làm việc ở các bệnh viện trung ương, các bộ môn của trường hoặc tại chính Bộ.
Vào năm thứ nhất nội trú, họ đã được hưởng phụ cấp tập sự cùng chỗ ở trong bệnh viện. Khi ra trường, cả lớp tiếp tục hưởng lương thực tập rồi chuyển sang bậc lương chính thức của bác sĩ.
Theo nhìn nhận của người trong cuộc, cơ chế đó vừa tạo động lực trách nhiệm, vừa lý giải vì sao một tập thể nhỏ lại có thể trở thành nguồn cán bộ nòng cốt cho cả hệ thống y tế trong nhiều thập niên.
Dấu ấn từ những ca bệnh không báo trước
Với những người từng sống trong bệnh viện suốt 4 năm liền, mỗi ngày nội trú là một chuỗi tình huống không lặp lại. Một bác sĩ phải tiếp xúc với bệnh nhân không chỉ bằng chuyên môn mà còn bằng sự hiểu biết xã hội và tâm lý.
GS Dũng nhắc đến một ca bệnh vào đúng chiều 30 Tết. Trời lạnh sâu, các gia đình đang chuẩn bị đón giao thừa thì một cặp vợ chồng trẻ ở Thường Tín (Hà Nội) bế con đến bệnh viện.
“Khi đó, chúng tôi không có nhiều xét nghiệm như bây giờ nên chỉ còn cách dựa vào quan sát lâm sàng. Tôi khám rất nhanh và nghĩ nhiều đến hạ đường huyết, yêu cầu y tá lập tức lấy ven truyền chai đường. Chừng 5 phút sau, cháu tỉnh lại”, ông chìm trong dòng hồi tưởng.
Theo lời bác sĩ, nếu trễ thêm, hạ đường huyết có thể dẫn đến tổn thương não hoặc tử vong. Ca bệnh đó là một ví dụ cho vai trò của khả năng nhận định nhanh trong những phút đầu. Nó cũng cho thấy sự khác nhau giữa kiến thức sách vở và phán đoán trên thực tế.
Không phải ca bệnh nào cũng mang lại cảm giác nhẹ nhõm. Có những trường hợp để lại sự day dứt kéo dài.

Buổi khám cho trẻ em tại Trung tâm Y tế Tân Sơn, Phú Thọ (Ảnh: NVCC).
GS Dũng kể về một bệnh nhi gan lách to được điều trị liên tục hơn 1 tháng. Bối cảnh lúc đó còn thiếu siêu âm, chụp cắt lớp hay cộng hưởng từ, nên mọi đánh giá đều dựa vào những xét nghiệm đơn giản và quan sát lâm sàng. Dù cả khoa đã làm tất cả những gì có thể, nguyên nhân bệnh vẫn không được xác định.
Khi em bé không qua khỏi, chẩn đoán cuối cùng trên giấy báo tử ghi gan lách to. Gia đình băn khoăn vì sau từng ấy thời gian, bệnh viện không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng hơn. Với đội ngũ điều trị, đây là trải nghiệm nặng nề và khiến họ suy nghĩ rất lâu về những giới hạn của chuyên môn thời điểm đó.
Những ca như vậy trở thành lý do để nhiều bác sĩ nội trú giữ riêng một cuốn sổ ghi chép các trường hợp đặc biệt.
"Mỗi trang sổ là một tình huống cụ thể khi đứng trước ngưỡng sống chết. Ghi lại để lần sau gặp tình huống tương tự không bị bất ngờ, cũng là để luôn nhắc mình về giới hạn của y học và trách nhiệm giải thích với người bệnh", ông cho biết.
Mô hình đặc biệt đứng trước nguy cơ giảm chất lượng
Nhìn từ chặng đường đã đi, GS Dũng bày tỏ nhiều băn khoăn về đào tạo ngành y nói chung và nội trú nói riêng trong bối cảnh hiện nay. Theo nhận xét của ông, bác sĩ và sinh viên y ngày nay có ít điều kiện thực hành hơn so với thế hệ trước.
“Bác sĩ nội trú bây giờ sáng đi tối về, không ở trong bệnh viện, thời gian lăn lộn với bệnh nhân ít hơn. Chương trình học cũng rút còn 3 năm. Có những ca bệnh diễn biến rất nhanh trong đêm, nếu không có mặt ở đó, người học khó có được trải nghiệm đầy đủ vì đã bỏ lỡ thời điểm vàng”, vị giáo sư phân tích.
Một khía cạnh khác mà ông nhắc đến là áp lực tài chính. Nhiều sinh viên phải vừa học vừa làm để trang trải học phí, tiền nhà, tiền ăn. Điều này khiến họ khó tập trung hoàn toàn cho việc học và thực hành. Trong khi đó, các chương trình sau đại học như nội trú, chuyên khoa thường kéo dài, đòi hỏi nhiều năm toàn tâm toàn ý.

GS Dũng trong buổi giảng về giao tiếp ứng xử và khám toàn diện nhằm nâng cao chất lượng lâm sàng và hạn chế bỏ sót bệnh tại Trung tâm Y tế Tân Sơn, Phú Thọ (Ảnh: NVCC).
Vị cựu trưởng khoa kể lại câu chuyện một học trò mà ông rất kỳ vọng. Người này được nhận về khoa Nhi để đào tạo thêm 2 năm, không phải đóng bất kỳ khoản chi phí nào. Tuy vậy, sau 6 năm đại học, gia đình không còn đủ khả năng hỗ trợ, buộc phải xin nghỉ để đi làm sớm.
“Kinh tế có thể khiến chúng ta mất đi những người rất giỏi, nếu không có chính sách hỗ trợ phù hợp”, ông nói.
Trong bối cảnh đó, các tranh luận chính sách gần đây về cách xếp loại các chương trình đào tạo nội trú, chuyên khoa I, chuyên khoa II thu hút nhiều sự chú ý. Một số báo cáo giải trình xem đây là các chương trình đào tạo hành nghề, chủ yếu để tích lũy năng lực thực hành, khác với đào tạo học thuật như thạc sĩ, tiến sĩ.
Tại nghị trường Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức từng nhấn mạnh rằng “bác sĩ nội trú là tinh hoa của tinh hoa trong ngành Y” và bày tỏ sự không đồng tình với cách nhìn xem đó như học chứng chỉ hành nghề.
Ở góc độ người trực tiếp trải qua hệ thống nội trú nhiều năm, GS Dũng không đề cập nhiều đến câu chuyện tên gọi văn bằng. Ông tập trung vào chất lượng thực tế.
Theo ông, điều quan trọng là bảo đảm bác sĩ nội trú có đủ thời lượng làm việc trong bệnh viện, đủ môi trường để rèn tay nghề, đủ cơ chế để yên tâm học tập mà không quá lo về mưu sinh.
Ở tuổi gần 70, vị giáo sư đã nghỉ hưu đúng quy định nhưng vẫn khám bệnh, giảng dạy, tham gia nhiều hoạt động tư vấn chuyên môn.
Nói về việc vẫn giữ được nhịp làm việc bền bỉ, ông chỉ mỉm cười: “Tôi còn sức khỏe thì vẫn muốn làm việc. Điều quan trọng nhất với tôi bây giờ là chia sẻ được nhiều kinh nghiệm cho thế hệ sau”.
Khi cuộc trò chuyện khép lại, chiếc chuông nhỏ ở cổng nhà vang lên. Một bé gái được mẹ bế đến, gương mặt còn phờ phạc vì sốt. GS Dũng đứng dậy, cất lại tập tài liệu còn dang dở rồi mở cửa phòng khám.
Ông ra hiệu cho 2 mẹ con vào trong, kéo ghế cho người mẹ ngồi, đặt ống nghe lên ngực đứa trẻ và hỏi những câu hỏi rất quen thuộc của một bác sĩ nhi khoa. Giọng nói nhẹ nhưng dứt khoát khiến người mẹ bớt phần lo lắng.
Vị giáo sư trở lại đúng với vai trò mà ông gắn bó hơn 50 năm. Cuộc trò chuyện về quá khứ và những trăn trở với đào tạo nội trú tạm gác lại, nhường chỗ cho một công việc vẫn lặp lại mỗi ngày.






















