DNews

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao

Dân trí

(Dân trí) - Trụ cột đổi mới sáng tạo - nhân tài, tinh hoa là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa bước nhảy vọt để trở thành nền kinh tế hiện đại, thu nhập cao vào năm 2045.

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao

LTS: Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, cuộc đua về công nghệ chiến lược và thu hút nhân tài tinh hoa đã trở thành mặt trận quyết định. Đâu là những "điểm nghẽn" và đâu là lối ra cho Việt Nam?

Bài viết của Tiến sĩ Hà Huy Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Chiến lược Kinh tế địa phương và Lãnh thổ (Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới) đã phác họa một cách thẳng thắn những thách thức cố hữu và đề xuất một lộ trình chiến lược với các giải pháp đột phá.

Công nghệ chiến lược đang góp phần định hình lại những điều kiện cần thiết để các quốc gia đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao, trong đó lực lượng lao động có kỹ năng là đòn bẩy hàng đầu.

Yêu cầu tiên quyết để thành công trong giai đoạn quá độ và vươn lên vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị, các nền kinh tế cần hình thành được một đội ngũ lao động có kỹ năng cao với quy mô lớn, có khả năng thu hút đầu tư và thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST).

Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được điều đó, vì vậy các định hướng chính sách gần đây đã thể hiện rõ sự ưu tiên cho khoa học, công nghệ và đặc biệt là vốn nhân lực, coi đây là những động lực then chốt cho tăng trưởng. Trong đó, các trụ cột ĐMST - nhân tài, tinh hoa là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa bước nhảy vọt để trở thành nền kinh tế hiện đại, thu nhập cao vào năm 2045.

Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua thu hút nhân tài?

Cuộc đua khốc liệt đang diễn ra trong các ngành công nghệ chiến lược và mới nổi, trong đó thành công phụ thuộc lớn vào đầu tư cho ĐMST và vốn nhân lực.

Trong số các lĩnh vực từ AI đến công nghệ sinh học và vi mạch bán dẫn, các quốc gia đi đầu đều sở hữu lực lượng nhân tài có kỹ năng sâu rộng, cùng với mức chi tiêu cao và bền vững nhất cho nghiên cứu và phát triển (R&D).

Trong toàn bộ 10 lĩnh vực “công nghệ chiến lược và trọng yếu” được xác định trên toàn cầu, phần lớn trùng với các lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam, nền tảng vững chắc là các cán bộ nghiên cứu, kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật được hỗ trợ bởi nguồn vốn dồi dào - mang tính quyết định để đảm bảo năng lực cạnh tranh.

Về mặt địa lý, Việt Nam nằm tại vị trí giao thoa của vùng đất ĐMST có năng lực cạnh tranh vượt trội ở Đông Á - khu vực tập trung cả năm cụm khoa học công nghệ (KH&CN) lớn nhất thế giới. Năm nền kinh tế trong khu vực Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan (Trung Quốc) - tất cả đều thuộc nhóm dẫn đầu toàn cầu trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), vi mạch bán dẫn và công nghệ sinh học.

Sự gần kề về địa lý này mang tính “con dao hai lưỡi”: Một mặt, Việt Nam có thể khai thác các mạng lưới tri thức và các chuỗi giá trị trong khu vực; mặt khác, phải đối mặt với sự cạnh tranh khi các quốc gia láng giềng như Trung Quốc hay Hàn Quốc và Singapore đang dẫn đầu trong thu hút nhân tài và đầu tư cho công nghệ.

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao - 1

Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Hà Nội (Ảnh: Hà Phong).

Trong hàng thập kỷ qua, các nền kinh tế này đều đã chủ động tạo dựng lực lượng nhân tài khoa học và kỹ thuật đủ lớn, đồng thời đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục đại học (GDĐH) và R&D, qua đó chuyển mình từ các quốc gia nhập khẩu công nghệ thành các quốc gia tiên phong về công nghệ. Hơn nữa, trong tất cả các hệ sinh thái công nghệ chiến lược này, các cơ sở GDĐH đều đóng vai trò trung tâm là nơi neo giữ nhân tài và ĐMST.

Tại các trung tâm ĐMST lớn của Trung Quốc, chẳng hạn hành lang Thẩm Quyến, Hồng Kông; Quảng Châu và vùng Bắc Kinh, các cơ sở GDĐH như Đại học Thẩm Quyến, Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh đều đóng vai trò trọng yếu, cung cấp đội ngũ sinh viên tốt nghiệp trình độ cao, là nơi đặt các phòng thí nghiệm R&D hợp tác với các doanh nghiệp như Huawei và SMIC.

Tại Hàn Quốc, cụm công nghệ Seoul-Incheon hình thành chung quanh Đại học Quốc gia Seoul và “Thung lũng công nghệ” bao gồm các cơ sở GDĐH như KAIST. Những ví dụ này cho thấy các trung tâm nhân tài và trung tâm ĐMST thường song hành với nhau, còn các cơ sở GDĐH hàng đầu luôn là mắt xích không thể thiếu để kết nối chúng.

Các quốc gia đi sau như Việt Nam cũng phải đối mặt với thách thức là các công nghệ trọng yếu này ngày càng gắn bó mật thiết với nhau. Một quốc gia muốn cạnh tranh trong một lĩnh vực công nghệ hàng đầu thì phải đầu tư cho nhiều lĩnh vực.

Trong khi đó, các quốc gia đi đầu về AI cũng thường tiên phong trong các lĩnh vực vi mạch bán dẫn, công nghệ sinh học, lượng tử và ngược lại, khiến cho mong muốn đuổi kịp trở nên rất khó hơn bao giờ hết.

Tiến bộ trong một lĩnh vực sẽ là xúc tác để đem lại tiến bộ trong những lĩnh vực khác: đột phá về AI sẽ đẩy mạnh nhu cầu vi mạch tiên tiến hơn, đồng thời đẩy nhanh nghiên cứu về công nghệ sinh học; trong khi đó, tiến bộ về vi mạch bán dẫn sẽ đem lại năng lực về điện toán tạo nền tảng cho lĩnh vực AI hiện đại.

Đồng thời, sự hội tụ này có nghĩa là đầu tư nền tảng vào nhân tài công nghệ và R&D có thể đem lại hiệu quả lan tỏa và nhân lên trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với Việt Nam, bức tranh toàn cầu cho thấy cả thách thức và áp lực.

Thực trạng nhân lực, nhân tài tinh hoa công nghệ ở Việt Nam

- Lực lượng nhân tài STEM trong toàn bộ nền kinh tế

Việt Nam có một lực lượng lao động làm việc trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) trẻ, đông đảo và ngày càng tăng, làm điểm khởi đầu.

Đến hết năm nay, khoảng hơn 580.000 chuyên gia trẻ (ở độ tuổi 22-35) có bằng đại học trong các ngành STEM, một con số đáng kể đối với một nền kinh tế mới nổi. Nguồn cung sinh viên mới tốt nghiệp trong các ngành STEM cũng đang gia tăng nhanh chóng, phản ánh nhu cầu lớn và nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy đào tạo.

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao - 2

Lực lượng lao động này là điểm khởi đầu trọng yếu. Trong ngành dịch vụ phần mềm và lập trình máy vi tính ở Việt Nam (bao gồm gần như toàn bộ các doanh nghiệp thiết kế vi mạch), hơn 80% số lao động có bằng đại học và gần 90% được tuyển dụng cho các vị trí đòi hỏi kỹ năng cao.

Trong các ngành công nghiệp chế tạo chế biến công nghệ cao, ngành dược phẩm có tỷ lệ lao động có bằng đại học, tay nghề cao gấp hơn bốn lần mức bình quân.

Mặc dù nguồn nhân tài đang phát triển, lực lượng lao động nghiên cứu nòng cốt của Việt Nam còn khiêm tốn. Năm 2024, cả nước có khoảng 81.900 nhân lực nghiên cứu và phát triển R&D (quy đổi toàn thời gian) - chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động.

Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu trên một triệu dân, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia đề ra là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian trên mỗi 10.000 dân vào năm 2030.

- Khoảng cách nhân tài trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược

Việt Nam cần gia tăng lực lượng nhân tài đáng kể trên nhiều phương diện. Trước hết, quy mô nhân tài cần được mở rộng, vì Việt Nam cần một số lượng lớn các kỹ sư và nhà nghiên cứu.

Tuy nhiên, riêng vấn đề số lượng vẫn chưa đủ. Trong tiến trình nỗ lực chuyển đổi từ lắp ráp sang các hoạt động có hàm lượng R&D và giá trị gia tăng cao hơn, Việt Nam phải đối mặt thách thức về đào tạo các chuyên gia và nhà nghiên cứu có trình độ chuyên môn sâu, sẵn sàng cho ngành với kiến thức tiên tiến. Nếu không thu hẹp được khoảng cách về chất lượng, Việt Nam có nguy cơ “chạm trần ĐMST” ngay cả khi số lượng sinh viên tốt nghiệp tiếp tục tăng lên.

Các cơ sở GDĐH, viện nghiên cứu và khu công nghệ cao là vườn ươm và địa chỉ tuyển dụng chủ đạo đối với nhân tài công nghệ.

Tuy nhiên, hiện có ba vấn đề chi phối bức tranh chung: chưa có cơ sở GDĐH nào của Việt Nam nằm trong nhóm 100 hay 200 đại học hàng đầu thế giới về khoa học và kỹ thuật; các trung tâm ĐMST chuyên trách của quốc gia chưa đủ phát triển; và hiện tượng “chảy máu tài năng” tiếp tục diễn ra.

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao - 3

Nhiều trường đại học tại Việt Nam cũng đang đổi mới trong việc đào tạo AI cho sinh viên (Ảnh: ST).

Môi trường nghiên cứu đẳng cấp thế giới trong nước còn hạn chế làm giảm động lực trở về của các nhà khoa học có trình độ cao, và sự thiếu vắng họ cũng khiến các cơ sở GDĐH khó đạt được khối lượng tới hạn của đội ngũ nhà khoa học xuất sắc cần thiết cho sự bứt phá.

Dù gần đây, các cơ sở GDĐH của Việt Nam đã có tiến bộ, với số lượng cơ sở xuất hiện trong các bảng xếp hạng khoa học và kỹ thuật toàn cầu tăng từ 4 vào năm 2020 lên 8 vào năm nay, nhưng vẫn chưa có cơ sở nào lọt vào nhóm 100 hàng đầu.

Sự vắng mặt này cho thấy tình trạng thiếu hụt đáng kể về thành tựu nghiên cứu xuất sắc. Các cơ sở GDĐH hàng đầu đóng vai trò là “mỏ neo” của các cụm ĐMST và việc Việt Nam chưa có các tổ chức nghiên cứu đẳng cấp toàn cầu là rào cản lớn.

Chính phủ đã cam kết đầu tư cho ba cụm ĐMST quốc gia, tuy nhiên chúng vẫn chưa trở thành động lực chủ đạo. Khác với các cụm KH&CN năng động trên thế giới thường hình thành quanh các viện nghiên cứu hoặc cơ sở GDĐH đầu ngành, các khu công nghệ cao của Việt Nam còn thiếu các "mỏ neo" này. Sự thiếu vắng này, cùng với sự gắn kết giữa GDĐH và doanh nghiệp còn yếu, đang hạn chế chuyển giao công nghệ và năng lực ĐMST.

- Hệ thống giáo dục sau đại học còn yếu và năng lực giảng viên hạn chế

Việc thiếu giảng viên có bằng tiến sĩ và tham gia nghiên cứu là rào cản lớn. Hiện chỉ có một phần ba số giảng viên đại học của Việt Nam có bằng tiến sĩ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 100% ở các chương trình hàng đầu châu Á.

Điều này khiến họ gặp khó khăn trong việc hình thành các “trung tâm xuất sắc” trong các lĩnh vực tiên tiến. Nhiều giảng viên cũng thiếu kinh nghiệm thực tiễn công nghiệp và chưa được tiếp cận hoạt động nghiên cứu tiên phong.

Nguồn nhân lực nghiên cứu được đào tạo trong nước gần như chững lại trong 15 năm qua. Tình trạng thiếu hụt tiến sĩ trong nước là điểm yếu quan trọng. Hiện Việt Nam đào tạo được khoảng 500 tiến sĩ STEM mỗi năm, trong đó chỉ có số rất ít trong các lĩnh vực chuyên sâu như thiết kế vi mạch bán dẫn hoặc AI.

Việt Nam cũng đang phải đối mặt với khoảng cách lớn về đầu tư cho GDĐH và R&D. Tổng chi cho R&D chỉ đạt 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (4,8% GDP) hoặc Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan.

Đầu tư thấp khiến Việt Nam chưa có được cụm KH&CN lớn, và số lượng công bố khoa học, bằng sáng chế còn hạn chế, trong khi chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp còn chậm. Ngân sách Nhà nước dành cho GDĐH chưa theo kịp tốc độ tuyển sinh, buộc các cơ sở phải dựa nhiều vào học phí. Tình trạng thiếu vốn còn trầm trọng hơn do rào cản về thủ tục hành chính trong giải ngân vốn nghiên cứu.

- Liên kết giữa cơ sở GDĐH và doanh nghiệp còn yếu

Sự hạn chế trong hợp tác giữa GDĐH - doanh nghiệp và khoảng cách trong chương trình đào tạo được thể hiện rõ.

Các cơ sở GDĐH và doanh nghiệp ở Việt Nam phần lớn hoạt động thiếu gắn kết, dẫn đến chương trình đào tạo lạc hậu và lệch với nhu cầu. Cho đến gần đây mới có một vài cơ sở GDĐH cung cấp các khóa học trong các lĩnh vực mới nổi như thiết kế vi mạch hoặc khoa học dữ liệu. Sinh viên tốt nghiệp thường thiếu kinh nghiệm thực tế, do đó nhà tuyển dụng phải đầu tư đáng kể để đào tạo lại.

Mức độ hợp tác trong R&D và chuyển giao công nghệ giữa giới học thuật và doanh nghiệp còn rất hạn chế. Chỉ có một số ít doanh nghiệp trong nước hợp tác với các cơ sở GDĐH, trong khi các giáo sư không có nhiều động lực để theo đuổi các dự án nghiên cứu ứng dụng.

Do đó, hoạt động chuyển giao công nghệ ra thị trường diễn ra ở mức rất hạn chế. Chẳng hạn, từ năm 2018-2023, khoảng 85% giá trị của toàn bộ các hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam đến từ các doanh nghiệp FDI, thay vì sự hợp tác giữa GDĐH và doanh nghiệp trong nước.

- Thiếu hụt hạ tầng đào tạo và R&D

Mức đầu tư hạn chế cho R&D của cả khu vực công và tư nhân dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu phát triển hạ tầng đào tạo, R&D trong các ngành công nghệ cao. Cơ sở vật chất tiên tiến - như phòng thí nghiệm hiện đại, nhà máy vi mạch bán dẫn, phòng sạch - đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn, nhưng Việt Nam vẫn còn thiếu.

Kiến tạo nền móng nhân tài để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao - 4

Khu Công nghệ cao Đà Nẵng (Ảnh: ST).

Việc thiếu cơ sở hạ tầng để tạo nguyên mẫu và mở rộng quy mô khiến nhiều sáng kiến ĐMST thường chỉ dừng lại ở khâu phòng thí nghiệm. Điều này không chỉ cản trở nỗ lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu, mà còn làm giảm sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các dự án công nghệ cao.

Một số kiến nghị giải pháp chiến lược phát triển nhân tài công nghệ

Mở rộng và tăng cường chiều sâu của đội ngũ nhân tài công nghệ cao

Việt Nam cần nhanh chóng mở rộng nguồn cung nhân tài và tăng cường chiều sâu năng lực của họ. Điều đó đòi hỏi phải bồi dưỡng thêm nhiều nhân tài trong nước, đồng thời thu hút và giữ chân các chuyên gia từ nước ngoài.

Những đề xuất chính bao gồm:

Học bổng sau đại học quốc gia: Triển khai chương trình học bổng nhằm hỗ trợ học viên và nhà nghiên cứu trẻ tham gia các lĩnh vực công nghệ cao ưu tiên, tài trợ cho học viên thạc sĩ, tiến sĩ và các dự án nghiên cứu liên kết doanh nghiệp.

Chương trình thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ toàn cầu: Cùng với các chính sách khác như Quỹ giảng viên xuất sắc và Chương trình đào tạo hiện đại gắn với nhu cầu doanh nghiệp.

Chương trình “đại học xuất sắc” công nghệ cao: Lựa chọn một nhóm nhỏ các cơ sở GDĐH KH&CN hàng đầu làm “đại học xuất sắc” theo các thỏa thuận về kết quả đạt được. Các thỏa thuận này sẽ đảm bảo phân bổ vốn cho các phòng thí nghiệm, đặt ra các chỉ tiêu tham vọng về đào tạo sau đại học, và yêu cầu phối hợp mạnh mẽ với doanh nghiệp.

Xây dựng cơ sở hạ tầng R&D và thí điểm dùng chung

Mở quyền truy cập nhằm tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH và doanh nghiệp khởi nghiệp được sử dụng cơ sở vật chất phòng thí nghiệm quốc gia như:

Mạng lưới các trung tâm xuất sắc quốc gia: Thiết lập mạng lưới các trung tâm nghiên cứu tiên tiến quốc gia trong các lĩnh vực công nghệ cao then chốt, đóng vai trò là đầu mối tập hợp các nhóm nghiên cứu từ GDĐH, viện nghiên cứu công và doanh nghiệp tư nhân.

Các cơ sở vật chất phục vụ thí điểm ĐMST: Đầu tư vào các cơ sở vật chất quy mô thí điểm nhằm thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và sản xuất, cho phép các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp sản xuất nguyên mẫu để kiểm thử và hoàn thiện quy trình.

Quỹ hạ tầng công nghệ cao: Khai thác Quỹ Hỗ trợ Đầu tư quốc gia mới thành lập để đồng tài trợ cơ sở hạ tầng R&D và các dự án ĐMST. Qua đó, liên danh gồm GDĐH, viện nghiên cứu và doanh nghiệp có thể đề nghị hỗ trợ đối ứng để thiết lập phòng thí nghiệm chung hoặc phát triển công nghệ mới.

Thúc đẩy liên kết cơ sở GDĐH - doanh nghiệp - Chính phủ và tác động lan tỏa của FDI

Yêu cầu cấp thiết là kết nối và gắn kết lợi ích của các bên để tri thức được lưu chuyển và ĐMST được lan tỏa. Một số đề xuất bao gồm:

Các cụm công nghệ hội tụ: Xúc tiến hình thành các khu ĐMST công nghệ cao, nơi các cơ sở GDĐH, viện nghiên cứu và doanh nghiệp cùng đặt trụ sở. Mỗi cụm sẽ chuyên sâu vào một nhóm các lĩnh vực công nghệ cao liên quan để thúc đẩy sự giao thoa nhân tài và ý tưởng.

Chương trình lưu chuyển nhân tài giữa doanh nghiệp và tổ chức học thuật: Thiết lập các cơ chế chính thức để trao đổi nhân tài giữa các bên, tạo điều kiện cho việc bổ nhiệm kép, biệt phái ngắn hạn và tạo vị trí việc làm chung.

Liên minh nhân tài và ĐMST công nghệ Việt Nam: Thiết lập nền tảng đồng tài trợ nhằm liên kết các công ty đa quốc gia với các doanh nghiệp trong nước và các cơ sở GDĐH để địa phương hóa kiến thức, tăng cường chuỗi cung ứng và đẩy nhanh chuyển giao công nghệ.

Sáng kiến này có thể sử dụng các khoản hỗ trợ đối ứng gắn với các sản phẩm đầu ra cụ thể như số lượng nhân sự được đào tạo và tài sản trí tuệ được chia sẻ.