(Dân trí) - “Nhân dân vĩ đại nhất, chứ không phải vị đại tướng nào. Trong 3 cuộc chiến tranh, nhân dân đóng góp và hy sinh nhiều nhất mà cuối cùng chính là người mẹ, người chị…”, Đại tướng Phạm Văn Trà chia sẻ.
Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng từng là người lính tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông cũng từng kinh qua nhiều trận đánh ác liệt ở Nam Bộ trong những năm tháng cam go của cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhiều trận chiến khốc liệt với quân Pol Pot ở chiến tranh biên giới Tây Nam. Chiến tranh khép lại, ông không thể nhớ mình đã tham gia bao nhiêu trận đánh, nay ở tuổi 91, ông vẫn kể rất chi tiết về nhiều trận đánh.
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Dân trí, Đại tướng Phạm Văn Trà đã chia sẻ cởi mở về quan điểm đánh trận, về chuyện người tướng nơi chiến trường khi lệnh trên và thực tiễn vênh nhau, rồi chuyện ông “cãi” cấp trên… Ông trải lòng về những mất mát lớn của thế hệ mình, đồng thời nhìn nhận, người hy sinh nhiều nhất cho đất nước chính là nhân dân, nhất là người mẹ, người chị,...
Đại tướng Phạm Văn Trà: Trận Mậu Thân đánh vào thành phố để gây tiếng vang (Video: Nguyễn Dương).

Thưa Đại tướng, đọc những câu chuyện về ông, chúng tôi nhớ nhất lần ông rơi vào trận địa phục kích của địch và bị mấy chục tay súng truy đuổi, hết sức nguy nan, nhưng cuối cùng ông thoát khỏi cuộc phục kích. Tình huống “không chết mới là lạ” trước thời điểm giải phóng miền Nam ít ngày ấy của ông được nói đến như là có “đấng cứu thế”?
- Lúc đó, Quân khu mời Trung đoàn trưởng đến nhận lệnh phối hợp cùng chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Vĩnh Long. Nếu chúng tôi đi tắt chỉ vài kilomet là đến Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu, còn đi vòng phải hơn chục kilomet. Tôi tính đơn vị đang đánh càn dưới kia, đi tắt trên đây chắc an toàn.
Khi chúng tôi đang di chuyển bỗng nghe tiếng súng “đốp”…, đi bước nữa, địch bắn ầm ầm từ trận địa phục kích cách khoảng 200m. Ngay lập tức, một tốp anh em chạy về phía Đại đội trinh sát, còn tôi và mấy cậu nữa chạy ngược trở lại Trung đoàn. Tôi cố chạy trong tiếng súng chát chúa. Tiếp sau, tôi nghe tiếng hò hét “Bắt sống Ba Trà...” (Ba Trà là tên thường gọi của Đại tướng Phạm Văn Trà thời đó - PV).
Tôi bỏ ba lô mà chạy, thà chết chứ không để bắt sống. Chạy như đứt ruột… May mắn, về gần sở chỉ huy, tôi được anh em đơn vị giải cứu.
Lúc đó chỉ còn 10 ngày nữa là giải phóng. Địch muốn đuổi bắt sống, nếu không vài chục họng súng nhằm tôi mà bắn thì tôi khó lòng thoát chết.
Đội phục kích này thuộc Tiểu đoàn 3 của địch, chúng ác ôn lắm, bắt được là chặt đầu.

Ông từng bị thương rất nặng phải trú ẩn ở cánh đồng lúa miền Tây, được một cháu bé cùng người mẹ đưa về nhà cưu mang trước khi chở bằng thuyền ra khu du kích; từng thoát chết một cách “không tin nổi” trong câu chuyện trên… Ông chiêm nghiệm thế nào về cái chết và sự sống trong chiến tranh?
- Trước khi vào Nam chiến đấu, tôi đã nói với gia đình, chắc đi là không trở về. Tôi cũng nói với vợ tôi như vậy vì chiến tranh tôi biết rồi, ác liệt lắm.
Khi viết thư cho vợ tôi nhắn nhủ chờ tôi 2 năm, nếu không có tin tức gì, không thấy tôi về, cứ đi lấy chồng. Con gái cũng có thời, chứ chờ tôi sợ lỡ hết.
Suốt 13 năm, tôi không thư về bởi ở trong đó không đưa thư cho ai được. May mắn, mình còn sống trở về. Vợ tôi cũng đã chờ đến khi chồng về.
Nhưng nhiều đồng đội tôi không bao giờ về nữa. Đoàn chúng tôi vào Nam gồm 160 người, chủ yếu là sĩ quan cấp úy, khi thống nhất đất nước chỉ còn 16 người trở về, cứ 10 người mất 9 người. Câu “lấy chồng chiến binh, lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại” trong bài hát Chuyện hoa sim, phổ thơ Hữu Loan như vận vào chúng tôi.
Ông đã từng là người lính từ thời chống Pháp, sau đó đánh trận nhiều năm ở miền Tây trong chống Mỹ và đánh Pol Pot trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông có nhớ mình từng tham gia bao nhiêu trận chiến đấu không?
- Tôi đánh rất nhiều trận, không thể nhớ hết nổi. Chống Pháp tôi đánh 7 trận, chống Mỹ đánh trận liên tục trong cả chục năm, còn chiến tranh biên giới Tây Nam cũng đánh rất nhiều.

Được biết, có trận đánh, ông đã “cãi” lại cấp trên của mình - một vị tướng tài ba - về phương án đánh địch. Hai người đã tranh luận gay gắt, nhưng rồi đến phút cuối vị chỉ huy cao nhất tại mặt trận đã đồng thuận với cách đánh ông đưa ra và thực tế đã chứng minh ông đúng… Ông có thể kể thêm về chuyện này và với ông thì sao, ông có cho cấp dưới cãi lại mình không?
- Tôi nhớ trận diệt một sư đoàn Pol Pot ở Phú Cường, An Giang, Bộ tư lệnh Quân khu lên phương án bố trí nhiều cánh quân, trong đó ban đầu định để 2 tiểu đoàn đi ngoài đồng phía biên giới để chặn đường rút quân của địch. Tôi bảo tôi đi với các anh lâu rồi, nhưng dù thế nào chúng tôi cũng đi theo kênh Vĩnh Tế phía trong. Bên kia hơn chục khẩu 12 ly 8 của địch bắn, đi giữa đồng chịu sao nổi. Cấp trên bảo như thế không được, bộ đội sẽ không có tinh thần. Tôi nói không, tôi đánh phải thế, anh có đi cùng, tôi cũng đánh thế.
Tôi biết, đến cuối cùng ông ấy mới quyết định nên không cho bộ đội về, vẫn cho quân sẵn sàng. Đến 9 giờ tối ông ấy bảo thống nhất ý kiến của tôi và trận này chúng tôi thắng lớn.
Cấp trên của tôi rất hay là tranh luận gay gắt, nhưng vẫn nghe cấp dưới.
Qua kinh nghiệm của tôi, những người dám “cãi”, dám phản biện thường là người giỏi, làm tốt nên tôi cũng thường phát huy những anh đó. Thực tế, người có trình độ mới cãi được.
Điều sợ nhất với người chỉ huy là không dám nghe cấp dưới, cứ cho mình là đúng. Anh phải biết tận dụng những người giỏi, dám phản biện chứ.

Người xưa có câu, tướng ở ngoài trận có thể không nghe lệnh vua. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đến chào Bác Hồ để ra mặt trận Điện Biên Phủ cũng được Bác truyền lệnh “tướng quân tại ngoại”. Nhiều năm là tướng ở ngoài trận, ông chia sẻ gì về điều này?
- Người xưa nói vậy bởi vua ra lệnh có khi không sát với chiến trường. Người tướng ngoài trận sâu sát thực tiễn, có những lúc không nghe lệnh được. Chẳng hạn vua lệnh đánh, nhưng lúc đó chưa đúng thời cơ thì sao. Đánh phải có thời cơ chứ. Không đúng thời cơ mà anh xung phong là chết hết.
Như vậy, ở đây phải tùy theo tình hình, thực tế ở chiến trường và phải biết vận dụng cho phù hợp.
Bác Hồ của chúng ta đã mở rộng điều này. Bác đã giao trách nhiệm cho tướng Giáp thì cũng đặt niềm tin và phát huy vị tướng của mình. Cho nên đánh hay không đánh, “đánh nhanh tiến nhanh” hay “đánh chắc tiến chắc” phải để anh Giáp quyết định.
Nhưng Bác nói, đánh phải chắc thắng, nếu không chắc thắng thì không đánh. Bác Hồ rất nhạy bén ở chỗ đó.

Ông vừa nói, người tướng phải tuỳ theo tình hình, thực tế ở chiến trường. Tuy nhiên, không thực tế nào giống thực tế nào cả và sự ứng biến, sáng tạo là rất quan trọng, thưa ông?
- Tôi không qua trường chính quy nào cả, chính thực tiễn đã tôi luyện chúng tôi. Ví như chiến dịch giải phóng các đảo Tây Nam của Tổ quốc khỏi sự chiếm đóng của Pol Pot, chúng tôi chưa có bài bản gì về đánh đảo, nhưng đã giành thắng lợi áp đảo.
Ngày 30/4/1975, đảo Phú Quốc được giải phóng thì ngày 3/5, tập đoàn phản động Pol Pot đưa quân chiếm phần phía bắc đảo Phú Quốc, đánh chiếm các đảo Hòn Ông, Hòn Bà, đảo Thổ Chu; giết hại 500 đồng bào ta sống lâu đời ở Thổ Chu.
Đảo Hòn Ông và Hòn Bà cách Phú Quốc trên dưới 130km. Hai hòn đảo cách nhau 3km, diện tích tương đương nhau. Hòn Ông có bãi cát khoảng 200m2, Hòn Bà có bãi cát khoảng 400m2. Quân địch đóng trên hai đảo khoảng một trung đoàn.
Khi một trung đoàn khác của ta đánh đảo Thổ Chu đã đổ bộ vào bãi cát của đảo này và nhanh chóng giải phóng đảo. Lúc đầu các anh bên Hải quân cũng nói, trung đoàn phải đánh vào bãi cát ở Hòn Bà, Hòn Ông, nhưng tôi lo ngại, đánh vào đó, địch bố trí lực lượng phòng thủ trước, hỏa lực ta không có gì, thương vong sẽ lớn.

Chúng tôi hỏi một ngư phủ trạc bảy chục tuổi thường ra đảo bắt Vích, được biết xung quanh đảo là vách đứng, rất khó vào, trừ một bãi cát. Tôi bàn với đồng chí Chính ủy, phải đánh theo kiểu Quân khu 9. Ta đổ thẳng quân vào chỗ dốc đứng nhất.
Thực hiện phương án đó, một tiểu đoàn của ta đã cơ động vào đảo Hòn Bà mà địch không ngờ tới. Lên được khoảng 200m, đơn vị tổ chức đào công sự. Sáng hôm sau ta nổ súng…
Đúng như tôi dự đoán, bãi cát chính là nơi địch bố trí trận địa phòng ngự hoả lực mạnh với 12 khẩu 12 ly 8, 12 khẩu DK. Nếu chúng tôi đổ bộ vào bãi cát, không biết tình hình lúc đó sẽ thế nào - chắc là không hoàn thành nhiệm vụ.
Trận này, quân ta thắng lớn. Sau 5 ngày chiến đấu, trung đoàn tiêu diệt và bắt sống 700 tên địch, giải phóng cả 2 hòn đảo.
Trận đánh chính là kinh nghiệm trong quá trình chiến đấu. Thực tiễn là quan trọng nhất, còn cứ theo lý thuyết đánh, có khi thua đấy.
Không phải cứ đánh theo lý thuyết, đánh chính quy là bảo đảm chắc thắng, thưa ông?
- Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, có điểm ở Hà Tiên ta đánh 2 ngày hy sinh đến cả trung đoàn, chúng tôi được điều lên hỗ trợ.
Khi ấy, ta cách địch 700m, lúc đầu đánh theo cách được học trước đây: loạt pháo thứ nhất, quân ta lên 300m rồi nằm đấy, loạt pháo thứ hai lên tiếp 300m nữa, còn cách địch hơn 100m, bắn loạt pháo thứ ba là xung phong… Thương vong rất nhiều.
Còn chúng tôi đánh theo kiểu Quân khu 9. Tối trung đoàn lên thực địa cách địch khoảng 200m, cho đào công sự rồi nằm tại đó. Đến 5h sáng, đánh một loạt pháo, xung phong luôn, địch không kịp trở tay, bỏ chạy. Chúng ta thương vong ít hơn, thắng lợi lớn.
Cho nên chiến trường phải áp dụng luôn kinh nghiệm của chiến trường.

Chúng tôi từng được nghe về những vị tướng tiết kiệm đến từng giọt máu của người lính. Từng chinh chiến trận mạc nhiều năm ở cương vị người chỉ huy, ông nói gì về điều này?
- Qua thực tiễn chiến tranh, kinh nghiệm chiến đấu cực kỳ quan trọng, vận dụng cho được thì sự hy sinh của bộ đội ít hơn và anh em tin tưởng vào chỉ huy. Thêm nữa, muốn đơn vị đánh tốt, chỉ huy phải hòa mình với anh em. Khi đơn vị đào công sự, chỉ huy đào cùng anh em, khi lính mò cá cũng mò cá cùng. Rồi Trung đoàn trưởng đi thực địa trước trận đánh với anh em…
Cũng phải nói rằng, trong chiến đấu, lúc nào cần hy sinh phải sẵn sàng. Ví dụ trận Điện Biên Phủ, đánh được đồi A1 mới giải phóng được Điện Biên Phủ vì nó là then chốt. Đồi A1, ta đánh từ đầu đến cuối chiến dịch, hy sinh rất lớn. Hay trận Mậu Thân, chúng ta phải hy sinh mới có chiến thắng sau này.
Trong nhà tướng anh nào cũng vậy, phải chấp hành nghiêm, nhưng tìm cách đánh cho được mà ít thương vong nhất. Phải nghĩ cho người lính và có giữ được người lính mới chiến thắng.

Đọc về trận đánh Mậu Thân 1968 trong cuốn hồi ký của ông, người ta thấy tâm trạng của ông như chùng xuống và đó cũng là những dòng nặng lòng, nghẹn ngào nhất?

- Trận Mậu Thân 68 Trung đoàn đánh vào Cần Thơ cùng với bộ đội địa phương đã diệt một đại đội Mỹ, phá hủy hơn 100 máy bay ở sân bay Cần Thơ… Nhưng Mậu Thân ác liệt lắm.
Chúng tôi đánh vào Cần Thơ với 1 trung đoàn 3.200 người, sau đó chỉ còn 1.200 người. Lúc đó tôi là tiểu đoàn phó, tham mưu trưởng, tiểu đoàn tôi khi đánh vào Cần Thơ là 1.100 người, khi ra còn hơn 200 người.
Tôi nhớ lại, vào những ngày chiến sự diễn ra khốc liệt ở lộ Vòng Cung, trong đơn vị đã truyền nhau câu: “Vòng Cung đi dễ khó về/Đạn chen đầu đạn bom kề hố bom” hay là “Tưởng là lên lộ đi xe/Ai ngờ trở lại không ghe không xuồng!”. Những câu này đã nói lên sự ác liệt cuộc chiến đấu của chúng tôi ở Vòng Cung.
Khi chúng tôi ra về, quân chủ lực của địch càn quét ở vùng nông thôn dữ lắm. Chúng chiếm lại hết vùng giải phóng, đóng đồn khắp nơi. Lúc đó, dân hoang mang, cán bộ hoang mang, thậm chí một số không chịu đựng được đã ra hợp pháp (ra ấp chiến lược - PV).
Trong những năm ở chiến trường, tôi quen thân một ông già trong vùng, lúc nào chúng tôi đến ông cũng động viên. Chúng tôi về thăm lần này, ông ấy nói: “Thôi các chú miền Bắc đã trót vào rồi thì gắng lên, đừng đầu hàng giặc. Còn tôi, nó đánh dữ quá, chịu không nổi thì tôi ra hợp pháp, chứ tôi không đầu hàng”. Sau đó ông đi và nói thêm “các chú đừng đầu hàng”.
Lúc này, Quân khu lại giải tán Trung đoàn. Anh em lúc đó, gạo thì dân cho, thức ăn mò dưới sông, lục bình luộc ăn chấm với muối, tiếp tục trụ lại.
Điều gì đã giúp các ông vượt qua giai đoạn hết sức khó khăn này?
- Rất may, cuối năm 1969 có 2 đồng chí Trung ương, đồng chí Chín Hòa, tức anh Lê Đức Anh và Tám Thuận, tức anh Võ Văn Kiệt về làm Tư lệnh và Bí thư. Lúc đầu Quân khu định đưa các anh về Năm Căn cùng Khu ủy cho an toàn hơn, nhưng hai anh không về vì lo không nắm được tình hình, không thúc đẩy được phong trào.
Sau đó anh Chín Hòa lên với chúng tôi, có lúc ở sát hàng rào thứ nhất của đồn địch. Anh Tám Thuận ở cách đồn địch khoảng 400m. Tối đầu tiên lên với chúng tôi các anh đã ra gặp bà con.
Nhờ sự chỉ đạo của các anh, phong trào ngày càng tốt lên. Anh Kiệt lúc đó có nói với chúng tôi: “Lúc này phải giữ lấy niềm tin chiến thắng của con đường Bác Hồ đã chọn…”. Cũng qua kinh nghiệm cuộc sống, anh Kiệt đúc kết “mất tiền còn kinh nghiệm, mất bạn là mất niềm vui, mất niềm tin là mất tất cả”.
Cho nên tôi nói là những lúc khó khăn nhất, các đồng chí Quân khu đã đến với Trung đoàn, động viên, tạo điều kiện cho chúng tôi có niềm tin vững chắc.
Sau đó, Bộ tăng cường cho chúng tôi 3 tiểu đoàn từ Bắc vào, Trung đoàn lại phục hồi và chiến đấu được.

Là người trực tiếp cầm quân ở chiến trường, ông lý giải vì sao chúng ta chịu nhiều tổn thất trong trận Mậu Thân 1968? Dường như với cán cân trên chiến trường lúc đó, chúng ta chưa thể đánh áp đảo địch tại đô thị?
- Tại sao ta đánh Mậu Thân, sau này tôi mới hiểu được. Năm 1967, Tổng thống Mỹ Johnson muốn tranh cử nhiệm kỳ 2, nói là Mỹ sẽ rút quân mà không vào Hội nghị hòa bình Paris.
Hội nghị Paris mới quan trọng, nhưng lúc đầu chỉ có Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Nam cộng hòa, còn Mỹ không vào. Chủ trương của Bộ Chính trị là làm thế nào để Mỹ vào đàm phán tại Hội nghị Paris, bởi nếu Mỹ không vào, không giải quyết được cuộc chiến tranh, Việt Nam sẽ chiến tranh mãi.
Phải có một trận đánh quyết liệt, để thế giới biết rằng Việt Nam đủ sức mạnh đánh Mỹ. Chính vì thế mới có trận Mậu Thân năm 1968.
Trận này ta không đánh vào quân chủ lực của chính quyền Sài Gòn mà đánh thẳng vào thành phố. Đánh vào thành phố mới gây được tiếng vang với thế giới.
Ta đánh vào Sài Gòn, Dinh độc lập, đánh vào đại sứ quán, đánh vào một số nơi của sĩ quan Mỹ và 54 thị trấn, thị xã. Đơn vị chúng tôi đánh vào thành phố Cần Thơ.
Chúng ta đánh 4 tháng, Mỹ không vào Hội nghị hòa bình Paris, đánh tiếp tháng 5 đến tháng 7 họ vẫn không vào, đánh tiếp tháng 9 đến tháng 11... Đúng ngày 17/11, Mỹ chấp nhận vào đàm phán tại Hội nghị hoà bình Paris, ta kết thúc chiến dịch Mậu Thân.
Chúng ta đã gây được tiếng vang lớn. Quốc hội Mỹ chất vấn Tổng thống, tại sao nói Việt Nam không thể đánh lớn mà họ đánh lớn như vậy. Tổng thống Mỹ không dám ra tranh cử nhiệm kỳ 2 nữa.
Như thế, mục đích quân sự phục vụ mục đích chính trị. Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Paris để bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam. Mỹ tham dự và sau này ký hiệp định thì hiệp định mới có tính pháp lý quốc tế.

Một cựu binh từng chiến đấu ở cả chiến trường Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ nói rằng, cuộc chiến ở miền Đông là cực kỳ gian khổ, cực kỳ ác liệt, nhưng cuộc chiến đấu ở Tây Nam Bộ, những gian khổ ác liệt có phần còn hơn. Vì thế, nếu nói miền Đông gian lao và anh dũng thì phải nói miền Tây là ác liệt, khắc nghiệt và kiên cường?
- Với chiến trường miền Tây, có 3 cái chết rình rập người lính. Ngoài cái chết do bom đạn, mìn như nhiều chiến trường, người lính có thể bỏ mạng do đuối nước hoặc bởi rắn, trăn.
Cựu binh Mỹ nói, khi đánh chúng tôi hình dung, dùng pháo binh và bom các ông sẽ chết đến 90%, nhưng nhờ có công sự các ông giảm được thương vong 70%. Công sự quan trọng như thế nhưng ở miền Tây nước ngập đến đầu gối, công sự nào được, chui đâu được, nên quân ta thương vong nhiều. Các anh xem Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang biết rồi, khi trực thăng bắn ụp xuống nước, người lính tránh đâu được!
Chiến trường Tây Nam Bộ từ Long An trở xuống do vậy hy sinh nhiều, cán bộ chết dữ lắm. Riêng Quân khu 9 có 4 chỉ huy quân khu hy sinh, Trung đoàn tôi hy sinh 13 cán bộ Trung đoàn.
Vậy nên, trong cuốn hồi ký của mình tôi viết, bộ đội tác chiến ở Đồng bằng sông Cửu Long phải bám chắc vào dân, dựa chắc vào dân. Cùng đó, bộ đội phải có tính cơ động cao, “đánh nhanh, rút nhanh, lộn vòng nhanh” và luôn luôn thay đổi cách đánh,...

Cách đây nhiều năm chúng tôi có đọc một bài báo kể lại câu chuyện một phóng viên nước ngoài phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi phóng viên này hỏi “vị đại tướng nào có vai trò quan trọng nhất trong kháng chiến chống Mỹ”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đáp: “Đại tướng Nhân dân”… Ông chia sẻ gì về câu trả lời này?
- Nhân dân vĩ đại nhất, chứ không phải vị đại tướng nào. Trong ba cuộc chiến tranh, nhân dân đóng góp và hy sinh nhiều nhất, mà cuối cùng chính là người mẹ, người chị.
Người phụ nữ hy sinh nhất cho đất nước. Người mẹ, người chị động viên con em vào chiến trường, để rồi, có những người suốt đời phải chịu đựng mất mát... Cho nên tôi nói bài hát Chuyện hoa sim là tôi ca ngợi người phụ nữ trước, những người hy sinh nhiều nhất.
Nhà nước dựng tượng đài tôn vinh và ca ngợi người phụ nữ Việt Nam. Trần Nhân Tông thờ mẫu cũng chính là ca ngợi người phụ nữ trước. Các chùa, trong thờ vua, ngoài trời thờ mẫu và thờ mẫu chính là thờ Phật bà quan âm - ví như Phật bà quan âm.
Mà thờ mẫu thì mẫu không ở trong chùa, bao giờ cũng đứng ngoài trời - người mẹ là người chịu đựng gian khổ nhất.
Người mẹ là người chịu đựng nhất mà sẵn sàng hy sinh nhất cho đất nước. Cho nên, nhiều năm chiến tranh, chiến trận tôi thấy rằng, lúc khó khăn nhất, lúc đau đớn nhất, lúc sắp lìa xa cuộc đời, những người lính đều gọi "Mẹ ơi"…
Bác Hồ và Đảng ta luôn lo cho dân, quan tâm đến dân nên được Nhân dân tin tưởng, ủng hộ, từ đó đất nước mới có được chiến thắng trong các cuộc chiến tranh và chúng ta mới có cuộc sống hoà bình, hạnh phúc như hôm nay.
Xin cảm ơn Đại tướng về cuộc trò chuyện!






















